Thursday, August 8, 2013

(2) NHƯ DÒNG SÔNG ĐANG CHẢY

NHƯ DÒNG SÔNG ĐANG CHẢY
THÂN TRỌNG SƠN dịch
TÔI KHÔNG THỂ VÀO
Gần thành phố Olite, bên Tây Ban Nha, có một lâu đài hoang phế. Tôi quyết định đi thăm nơi này, khi tôi đang đứng trước lâu đài, một người đàn ông tới nói:
“ Ông không được vào.”
Trực giác cho tôi biết là ông ta nói thế chỉ vì thấy vui khi nói “ không “. Tôi giải thích là tôi từ xa đến, tôi định cho ông chút tiền, tôi cố tỏ ra thân thiện, tôi nói rõ là dầu sao đây chỉ là một lâu đài bỏ hoang. Bỗng nhiên tôi cảm thấy việc đi vào lâu đài này rất quan trọng đối với tôi.
Ông ta vẫn cứ khăng khăng: “ Ông không được vào.”
Chỉ còn một lựa chọn: tiếp tục, để xem ông ta có dùng sức lực mà ngăn cản tôi không. Tôi tiến bước qua cổng. Ông ta nhìn tôi nhưng không phản ứng gì.
Khi tôi ra về, hai du khách khác đến và cũng vào bên trong. Ông già không cản họ. Tôi cảm thấy chừng như do tôi chống lại nên ông già thôi không bịa ra những luật lệ quái gỡ nữa. Đôi khi, cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải đấu tranh với những điều ta không hiểu và cũng không bao giờ khám phá ra ý nghĩa của những điều đó.
 
TRÊN “NÚI XANH”
Một ngày sau khi tôi đến nước Úc, nhà phát hành sách của tôi đưa tôi đến một công viên thiên nhiên gần Sydney. Giữa khu rừng phủ lấy cả khu vực gọi là Núi Xanh ( Blue Mountains ), có ba khối đá có hình dạng giống những ngọn tháp.
” Đấy là Ba Chị Em “, ông ấy nói, rồi kể tôi nghe câu chuyện truyền thuyết sau đây:
Một vị pháp sư dẫn ba cô em đi dạo chơi, một chiến binh khá nổi tiếng thời đó lại gần và nói:
” Tôi muốn cưới một trong ba cô gái đáng yêu này.”
” Nếu một trong ba cô kết hôn, hai cô còn lại sẽ nghĩ là mình xấu. Tôi sẽ tìm đến một bộ lạc nơi mà các chiến binh được phép cưới ba vợ “, vị pháp sư trả lời, rồi bỏ đi.
Trong nhiều năm, ông đã đi khắp Châu Úc mà không tìm ra bộ lạc đó.
” Đáng lẽ một trong ba chúng em đã được hạnh phúc,” một trong ba chị em nói, khi mà họ đã già yếu và mỏi mệt vì đi bộ.
” Anh đã sai lầm,” pháp sư nói, ” nhưng giờ thì muộn mất rồi.”
Và ông biến ba chị em thành những tảng đá để bất cứ ai đi qua đó sẽ hiểu được rằng hạnh phúc của một người không có nghĩa là sự bất hạnh của những người khác.
 
RAJ KỂ TÔI NGHE MỘT CHUYỆN
Một goá phụ trong một ngôi làng nghèo ở Bengal không có đủ tiền cho con trai đi xe buýt, đến lúc con đi học, nó phải một mình đi bộ băng qua rừng. Để trấn an con, bà nói:
” Đừng sợ rừng con ạ. Hãy xin Thần Krishna cùng đi với con. Thần sẽ nghe lời cầu nguyện của con đó.”
Cậu bé nghe theo gợi ý của mẹ, và Krishna hiện ra đúng lúc rồi từ đó cùng đi với cậu tới trường.
Rồi đến hôm sinh nhật của thầy giáo, cậu bé xin mẹ tiền để mua quà tặng thầy.
” Chúng ta không có tiền đâu con. Hãy xin anh Krishna của con mua quà cho .”
Ngày hôm sau, cậu bé trình bày khó khăn của mình với Krishna và vị thần liền cho cậu một bình sữa.
Cậu bé hãnh diện đưa bình sữa cho thầy, nhưng quà của các học sinh khác giá trị hơn nhiều nên thầy không để ý đến quà của cậu.
Thầy bảo người phụ tá: ” Mang bình sữa này xuống nhà bếp.”
Người phụ tá làm theo lời thầy. Tuy nhiên khi anh ta đổ sữa ra thì ngay lập tức sữa tự đầy bình trở lại. Anh báo cho thầy giáo biết, thầy ngạc nhiên hỏi cậu bé:
” Con lấy bình sữa này ở đâu, và làm sao mà nó cứ tự làm đầy mãi như thế được?”
” Thưa Thầy, thần rừng Khrisna cho con đó !”
Thầy giáo, học sinh và người phụ tá đều bật cười.
” Chẳng có thần thánh nào trong rừng cả, toàn chuyện mê tín dị đoan,” thầy giáo nói.” Nếu quả thực có thần, chúng ta thử đi gặp xem sao.”
Mọi người ra đi. Cậu bé lên tiếng gọi Krishna nhưng thần không hiện ra. Cậu bé cố gọi lần cuối, không hy vọng gì:
” Hỡi thần Krishna, thầy giáo muốn gặp thần. Xin hiện ra đi!”
Ngay lúc này, một giọng nói trổi lên và vang khắp rừng:
” Làm sao mà ông ấy có thể muốn nhìn thấy ta hở cậu bé? Ông ta còn không tin là ta hiện hữu mà! “
 
NGƯỜI PHỤ NỮ GIÀ Ở COPACABANA
Bà đứng ở khu vực dành cho người đi bộ trên đại lộ Atlantica, với cây đàn ghi ta và tấm bảng có chữ viết tay: HÃY HÁT VỚI NHAU!
Bà bắt đầu tự mình biểu diễn. Sau đó có một người say đi tới, rồi một bà già khác, cả hai bắt đầu cùng hát với bà. Rồi một nhóm nhỏ cùng hát, một nhóm nhỏ khác tạo thành khán giả, vỗ tay cổ vũ mỗi khi nghe xong một bài.
Giữa hai bài hát, tôi hỏi bà:
” Tại sao bà làm thế này?”
” Để khỏi thấy cô đơn “, bà nói, ” Cuộc sống của tôi đơn độc lắm, cũng như hầu hết người già khác thôi.”
Giá mà ai cũng giải quyết vấn đề theo cách này.
 
SỰ QUAN TRỌNG CỦA CON MÈO TRONG THIỀN ĐỊNH
Khi viết cuốn Veronika quyết chết, cuốn sách nói về sự loạn trí, tôi phải tự đặt ra câu hỏi bao nhiêu việc ta làm thực sự là cần thiết và bao nhiêu việc là vô lý. Tại sao ta thắt cà vạt? Tại sao kim đồng hồ xoay theo chiều của nó? Nếu ta sống với hệ thống thập phân thì tại sao ngày lại có hai mươi bốn giờ và giờ có sáu mươi phút?
 

Thực tế là nhiều quy tắc chúng ta tuân thủ hiện nay chẳng có cơ sở đúng đắn nào. Tuy vậy, nếu ta chọn lối hành xử khác đi thì ta sẽ bị xem là ” điên khùng” hoặc “không chín chắn”.
Cứ theo cái đà này, xã hội sẽ tiếp tục tạo ra những hệ thống mà, theo dòng thời gian, rốt cuộc sẽ chẳng có ý nghĩa gì, thế nhưng vẫn tiếp tục áp đặt lên ta những quy tắc của chúng. Một câu chuyện khá thú vị của Nhật minh hoạ cho quan điểm của tôi.
Một vị thiền sư nổi tiếng, trụ trì thiền viện Mayu Kagi, có nuôi một con mèo, là tình yêu đích thực trong đời ông. Vào giờ dạy thiền định, ông luôn cho con mèo ngồi kế bên, để có thể hưởng được niềm vui ở bên cạnh con thú càng nhiều càng tốt.

Bây giờ ông thực đã già lắm rồi, một sáng kia, mọi người phát hiện ông đã chết. Môn sinh lớn tuổi nhất thay thế ông.

” Chúng ta sẽ làm gì với con mèo?” , các vị sư khác hỏi.

Để tỏ lòng tôn kính thầy cũ, vị thiền sư mới quyết định cho phép con mèo tiếp tục hiện diện tại các lớp học Thiền.
 
Nhiều môn sinh ở các thiền viện gần đó thường hay du hành khắp vùng, phát hiện ra việc tại một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất của khu vực, có một con mèo tham gia vào buổi thiền định. Câu chuyện bắt đầu lan truyền.

Năm tháng trôi qua. Con mèo chết, nhưng các môn sinh đã quen với việc nó luôn có mặt nên đi tậu một con mèo khác. Cùng lúc đó, các thiền viện khác cũng bắt đầu đưa mèo vào dự các buổi thiền định, họ tin rằng nhờ có mèo nên thiền viện Mayu Kagi mới nổi tiếng và chất lượng tu tập ở đó mới tốt như vậy, mà quên mất là vị thiền sư trước đây hoàn hảo như thế nào.
 
Một thế hệ qua đi, những văn bản nói về sự quan trọng của mèo trong thiền định được ấn hành. Một giáo sư đại học khai triển một luận án, được giới học thuật chấp nhận, cho rằng mèo có khả năng làm tăng sự tập trung của con người và loại bỏ năng lượng tiêu cực.
 
Và như thế, trong vòng một thế kỷ, mèo được xem là một yếu tố thiết yếu trong việc thực hành thiền trong cả vùng này.
Sau đó, có một thiền sư bị dị ứng vì lông mèo, ông quyết định không cho mèo tham dự những buổi hành thiền hàng ngày với thiền sinh nữa.
Mọi người phản đối, nhưng thiền sư vẫn quyết chí. Vì đây là một vị sư có tài năng nên môn sinh vẫn tiến bộ bất chấp việc mèo vắng mặt.
 
Dần dần, các thiền viện- lúc nào cũng muốn tìm ý tưởng mới, lại chán ngán việc nuôi ăn bao nhiêu là mèo – cũng bắt đầu thôi không cho mèo hiện diện trong các lớp nữa. Hơn hai mươi năm sau, những luận án mới mang tính cách mạng được viết ra, mang các nhan đề rất thuyết phục như ”Sự Quan Trọng của việc Thiền Định Không Có Mèo ” hay là ” Làm Quân Bình Vũ Trụ Thiền Bằng Năng Lực Của Trí Tuệ Và Không CóTrợ Lực Của Mèo “.
Một thế kỷ nữa trôi qua, mèo hoàn toàn biến mất khỏi nghi thức thiền định trong cả khu vực. Nhưng cũng phải mất đến hai trăm năm để mọi thứ trở lại bình thường, và tất cả chỉ vì, suốt thời gian này, không ai nghĩ đến việc thắc mắc tại sao mèo lại có ở đó.
Trong chúng ta có bao nhiêu người, suốt cuộc đời mình, có lần dám hỏi: tại sao ta ứng xử như thế này? Trong những điều ta làm, bao nhiêu lần ta đã dùng tới những ” con mèo ” phù phiếm như thế mà không đủ can đảm để gạt bỏ đi chỉ vì nghe bảo rằng ” mèo ” rất quan trọng để giữ cho mọi việc tiến triển suôn sẻ.
Tại sao chúng ta không tìm một cách ứng xử khác?
 
NƯỚC MẮT CỦA SA MẠC
Một người bạn của từ Morocco trở về kể câu chuyện thú vị về một nhà truyền giáo. Ngay khi đến Marrakesh, vị này quyết định mỗi sáng sẽ đi bộ trên sa mạc ngay bên ngoài thành phố. Lần đầu tiên làm việc này, ông để ý tới một người đàn ông đang nằm, tai ép sát mặt đất, một bàn tay vỗ lên cát.
 
Nhà truyền giáo tự nhủ: anh ta điên thật rồi.
Nhưng cảnh này vẫn tái diễn mỗi ngày, sau một tháng, ngạc nhiên về thái độ lạ lùng này, ông quyết định bắt chuyện với người đó. Khó khăn lắm, vì ông chưa rành tiếng Á rập, ông quỳ gối bên cạnh anh ta.
” Anh đang làm gì vậy?”
” Tôi kết bạn với sa mạc, mang đến chút an ủi cho sự cô đơn và những giọt nước mắt của sa mạc “.
” Tôi không biết là sa mạc cũng có thể rơi nước mắt.”
” Ngày nào sa mạc cũng khóc vì nó mơ sẽ trở nên hữu dụng cho loài người và biến thành một khu vườn rộng lớn để người có thể trồng ngũ cốc, trồng hoa và thả cừu ăn cỏ.”
” Vậy thì anh hãy bảo với sa mạc rằng nó đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng”, nhà truyền giáo nói. ” Mỗi khi tôi đi bộ trên sa mạc, tôi hiểu được tầm vóc thực sự của con người, bởi vì không gian mênh mông của sa mạc nhắc nhở tôi rằng chúng ta bé nhỏ biết bao so với Thượng Đế. Khi nhìn vào cát sa mạc, tôi hình dung ra hàng triệu con người trên thế giới đã sinh ra bình đẳng, cho dù thế giới không phải lúc nào cũng công bằng với tất cả mọi người. Những ngọn núi nơi sa mạc giúp tôi suy ngẫm, và khi tôi ngắm nhìn mặt trời hiện từ lên phía chân trời, tâm hồn tôi dâng tràn niềm vui, tôi cảm thấy gần với Tạo Hoá hơn.”
Nhà truyền giáo giã từ anh chàng kia để trở về với công việc hàng ngày. Hãy tưởng tượng ông ngạc nhiên xiết bao khi, vào sáng hôm sau, ông lại thấy người đàn ông cũng tại vị trí đó, cũng tư thế đó.
” Anh đã kể với sa mạc tất cả những gì tôi nói chưa?”
Người đàn ông gật đầu.
” Và nó vẫn khóc?”
” Tôi nghe được từng tiếng nức nở. Bây giờ sa mạc đang khóc vì cả hàng ngàn năm nó cứ tưởng là hoàn toàn vô dụng, là phí thời gian vô ích vào việc báng bổ Thượng Đế và số phận của chính mình.”
” Vâng, anh nói với sa mạc rằng, dẫu cuộc đời ngắn ngủi hơn nhiều, loài người chúng ta cũng mất nhiều thời gian cho rằng chúng ta vô dụng. Hiếm khi chúng ta khám phá được số phận thực sự của mình, và cứ nghĩ là Thượng Đế bất công với chúng ta. Cuối cùng, thời điểm cũng đến, có điều gì đó tiết lộ cho chúng ta cái lý do tại sao chúng ta ra đời, rồi chúng ta cho là đã trễ để thay đổi cuộc sống, và tiếp tục đau khổ, và, giống như sa mạc, tự dằn vặt mình về thời gian đã bỏ phí.”
 

” Tôi không biết sa mạc sẽ nghe những điều này không. Nó đã quen đau khổ và không nhìn sự vật theo cách khác.”
” Chúng ta hãy làm điều tôi vẫn thường làm khi cảm thấy là mọi người đã mất hết hy vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện.”
Cả hai người quỳ xuống và cầu nguyện. Một người hướng về Mecca vì ông ta là tín đồ đạo Hồi, người kia đan hai tay lại với nhau để cầu nguyện vì ông theo đạo Cơ Đốc. Mỗi người cầu nguyện Thượng Đế của mình, mà thực ra cũng chỉ là một Thượng Đế thôi tuy là mọi người đều quyết gọi bằng những tên khác nhau.
 

Ngày hôm sau, khi nhà truyền giáo lại đi bộ buổi sáng như thường lệ thì người đàn ông kia không có ở đó nữa. Tại vị trí mà anh ta thường ôm hôn mặt đất, cát trông có vẻ ướt, vì có một con suối nhỏ bắt đầu sủi bọt nước nơi đó. Mấy tháng sau, suối lan rộng, dân thành phố xây ở đó một cái giếng.
Dân du mục Bedouin gọi chỗ này là ” Giếng Nước Mắt Sa Mạc”. Họ bảo rằng người nào uống nước giếng này sẽ biết cách biến nguyên nhân nỗi khổ thành nguyên nhân của niềm vui, và thôi không tìm kiếm số phận thực sự của mình nữa.
 
 
PAOLO COELHO
( Trích tuyển tập LIKE THE FLOWING RIVER -
Nguyên tác tiếng Bồ Đào Nha, bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa.
NXB Madison Park Press, 2006 )
THÂN TRỌNG SƠN dịch từ bản tiếng Anh.
DoDom Post

No comments:

Post a Comment