Bài viết cũ của tôi năm 2004:
Phân tích, dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010
MỞ ĐẦU
Cũng như các loại dự báo khác, để các phân tích và dự báo kinh tế trung hạn có cơ sở khoa học, xu hướng phổ biến trong nửa thế kỷ gần đây trên thế giới là phải sử dụng những công cụ hiện đại của quản lý kinh tế trong cơ chế kinh tế thị trường, trong đó kinh nghiệm thế giới cho thấy mô hình kinh tế lượng là một trong những công cụ dự báo trung hạn rất có hiệu quả. Thực tế loại công cụ này đã và đang được sử dụng rộng rãi tại phần lớn các nước trên thế giới.
Phân tích và dự báo tiến triển trung hạn (5 năm) của nền kinh tế quốc dân là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chính thông qua công tác này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể có những thông tin cần thiết làm cơ sở ban đầu để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm trình Chính phủ và Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thường xuyên thực hiện các dự báo trung hạn để kịp thời có những điều chỉnh chính sách kinh tế cần thiết nhằm liên tục duy trì ổn định vĩ mô và đảm bảo thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
Phân tích và dự báo tiến triển trung hạn (5 năm) của nền kinh tế quốc dân là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chính thông qua công tác này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể có những thông tin cần thiết làm cơ sở ban đầu để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm trình Chính phủ và Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thường xuyên thực hiện các dự báo trung hạn để kịp thời có những điều chỉnh chính sách kinh tế cần thiết nhằm liên tục duy trì ổn định vĩ mô và đảm bảo thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
Trên thế giới, có thể nói hầu như không có nước nào không xây dựng các mô hình kinh tế lượng để phục vụ công tác phân tích và dự báo kinh tế trung hạn. Tại các nước công nghiệp và nhiều nước đang phát triển, quá trình xây dựng các mô hình đã được thực hiện thường xuyên từ nhiều thập kỷ; các mô hình dự báo trung hạn ngày càng được chuẩn hoá, hình thành nên nhiều mô hình chuẩn và được lưu trữ trong máy tính để mỗi khi chính phủ muốn áp dụng các chính sách mới thì tiến hành thử nghiệm trên máy tính để dự báo ảnh hưởng nhiều năm của các chính sách đó, từ đó lựa chọn được những chính sách tối ưu để áp dụng trong thực tế. Ngoài ra, mỗi khi có những thay đổi tương đối lớn của môi trường kinh tế quốc tế dự báo có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm, các chính phủ đều có thể sử dụng mô hình kinh tế lượng đã xây dựng và cài đặt trong máy tính để phân tích ảnh hưởng của chúng tới nền kinh tế quốc dân và giúp lựa chọn những đối sách cần thiết để xử lý.
Ở trong nước, công tác phân tích và dự báo kinh tế dựa trên các hệ mô hình kinh tế lượng phục vụ công tác xây dựng kế hoạch 5 năm đã được đặt ra từ lâu. Tuy nhiên, do những khó khăn về nguồn số liệu và nhất là do nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều biến động phức tạp, đến nay, kết quả thu được vẫn rất hạn chế. Phần lớn các mô hình xây dựng chi tiết với khoảng 30 phương trình trở lên đều được sử dụng để dự báo cho thời kỳ ngắn hạn, tối đa là 2 năm. Rất hiếm, thậm chí chưa có mô hình chi tiết nào được sử dụng để dự báo tới 5 năm.
Trong những năm gần đây, một số mô hình gộp ít phương trình đã được sử dụng để dự báo trung hạn, nhưng các dự báo đó tập trung chủ yếu vào dự báo cân đối GDP theo quan điểm sử dụng và cân đối vốn đầu tư để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng; do đó mô hình hoá kinh tế lượng vẫn chưa thực sự là một công cụ dự báo vĩ mô để đảm bảo các cân đối lớn của toàn nền kinh tế. Ngoài ra, các mô hình đều không được sử dụng thường xuyên để cung cấp thông tin phục vụ công tác điều hành thực hiện kế hoạch 5 năm.
Nguyên nhân chủ yếu là ở nước ta, do mới chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, hệ thống thông tin thống kê còn chưa đầy đủ và thiếu chuẩn xác nên trong những năm qua, rất khó sử dụng công cụ mô hình hoá kinh tế lượng trong phân tích và dự báo kinh tế. Mặt khác, do điều hành kinh tế của chúng ta vẫn chủ yếu theo kế hoạch năm, chưa thực sự chuyển sang điều hành theo kế hoạch 5 năm, nên nhu cầu sử dụng mô hình trong dự báo trung hạn vẫn chưa cao. Ngoài ra, từ năm 1975 đến cuối thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta phát triển không ổn định với những mô hình phát triển khác nhau nên rất khó mô hình hoá để dự báo trung hạn.
Trong những năm gần đây, nhất là sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, trong bối cảnh phát triển nhanh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng đa dạng, vấn đề phát triển nhanh nhưng ổn định (ít nhất là trong thời kỳ trung hạn) ngày càng nổi lên như là một trong những nhiệm vụ trung tâm của quản lý kinh tế và kế hoạch hoá. Do đó, nhu cầu về những thông tin phân tích và dự báo kinh tế trung hạn phục vụ công tác quản lý và điều hành kinh tế đang trở lên rất lớn. Bên cạnh những thông tin định tính, nhu cầu thông tin định lượng đã trở lên đặc biệt cao; vì vậy việc khai thác, sử dụng công cụ mô hình hoá là không thể thay thế được và ngày càng cấp bách. Ngoài ra, có thể thấy hệ thống thông tin kinh tế của nước ta đã không ngừng được hoàn thiện; hiện nay chúng ta đã có những bộ số liệu thống kê tương đối dài và đồng bộ, bước đầu đã chấp nhận được khi muốn xây dựng các mô hình kinh tế lượng tương đối chi tiết để dự báo tới 5 năm.
Nhận thức được vấn đề này, một số Bộ điều hành kinh tế tổng hợp như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bắt đầu xúc tiến phát triển công tác mô hình hoá kinh tế lượng, trước hết là phục vụ công tác phân tích và dự báo ngắn hạn, trên cơ sở đó sẽ tiếp tục hoàn thiện để phục vụ công tác phân tích và dự báo trung hạn.
Về phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo sự phân công của Trung ương Đảng và Chính phủ, trong năm 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải hoàn thành các báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới kinh tế (1986-2005) và xây dựng xong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 báo cáo Chính phủ để Chính phủ trình Đại hội Đảng và Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, vì những nghiên cứu thực hiện 2 nhiệm vụ chính trị trên vừa mới được bắt đầu nên những thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu đến nay còn rất thiếu, đặc biệt là các thông tin rút ra từ các nghiên cứu dựa trên các công cụ phân tích và dự báo định lượng. Chính vì vậy, việc triển khai một đề tài sử dụng mô hình kinh tế lượng để phân tích tình hình phát triển kinh tế giai đoạn từ năm 1986 đến nay và dự báo một số khả năng phát triển kinh tế cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 là rất cần thiết và có ý nghĩa rất thiết thực đối với công tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Mô hình kinh tế lượng được xây dựng trong khuôn khổ báo cáo này là một kế thừa và phát triển những kết quả của công tác mô hình hoá đã có từ nhiều năm qua ở nước ta, đặc biệt là mô hình quý VQEM được xây dựng năm 2000 tại Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đây sẽ là một trong những bước khởi đầu nhằm mục đích tiến tới xây dựng được một mô hình kinh tế lượng vĩ mô có giá trị để sử dụng lâu dài trong công tác phân tích kinh tế, mô phỏng chính sách và dự báo tiến triển trung hạn của nền kinh tế quốc dân nước ta phục vụ cho công tác xây dựng và điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 tại Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Do việc xây dựng các mô hình mô hình thực nghiệm vẫn là vấn đề còn rất mới mẻ ở nước ta đồng thời thời gian xây dựng mô hình quá ngắn theo yêu cầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên mục tiêu chính của đề tài là nghiên cứu thử nghiệm xây dựng một mô hình với số liệu năm và sử dụng mô hình trong phân tích kinh tế và dự báo trung hạn. Vì đây là thử nghiệm đầu tiên theo hướng xây dựng mô hình dự báo trung hạn nên những kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ có tính chất khai phá; cần phải có nhiều nghiên cứu khác kỹ hơn bổ sung cho những kết quả của nghiên cứu này nhằm đảm bảo độ tin cậy của chúng.
Trên cơ sở mục tiêu đặt ra, phạm vi nghiên cứu kinh tế vĩ mô được thể hiện trong mô hình của báo cáo này là những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tổng hợp chính phục vụ trực tiếp công tác phân tích và dự báo 5 năm 2006-2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Mô hình trong báo cáo này sẽ tập trung phân tích, dự báo khoảng 30 chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chính trên cơ sở khai thác tối đa những nguồn thông tin tin cậy nhất có thể thu thập được.
Mô hình kinh tế lượng Việt Nam được giới thiệu trong báo cáo này (gọi tắt là VMEM 2004 - Vietnam MacroEconometric Model) sẽ mô tả nền kinh tế chủ yếu theo tiếp cận cung, nhưng trong đó vẫn có một số khu vực được xác định kết hợp theo tiếp cận cung với theo tiếp cận cầu (nửa cung nửa cầu).
Thực vậy, phân tích tình hình kinh tế nước ta trong 2 thập kỷ gần đây cho các nhân tố tăng trưởng trung hạn của nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu là các nhân tố cung, tức là đầu vào là nhân tố chủ yếu quyết định kết quả sản xuất chứ không phải là đầu ra. Tình hình này rất rõ ràng trước khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 vì khi đó thị trường trong và ngoài nước đều được mở ra rất mạnh; khan hiếm hàng tiêu dùng và các nguồn lực trở thành hiện tượng phổ biến khắp nơi, làm cho cơ chế bao cấp xin - cho vẫn là nguyên tắc chi phối toàn bộ cơ chế vận động của nền kinh tế nước ta, đồng thời làm cho nền kinh tế nước ta hoạt động có thể nói là gần như hết công suất.
Từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đến nay, nền kinh tế có giai đoạn đã rơi vào tình trạng thiểu phát và cung lớn hơn cầu. Tình trạng dư thừa hàng hoá, dư thừa vốn và tiền tệ phát triển tràn lan, kéo theo giá hàng tiêu dùng và lãi suất giảm gần như liên tục qua các tháng. Do vậy, tiếp cận trung tâm của các mô hình dự báo ngắn hạn trong những năm gần đây là tiếp cận cầu, trong đó những nhân tố chính tác động đến khu vực thực, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế, là các nhân tố tài chính, tiền tệ.
Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn, có thể thấy, về trung hạn, các nhân tố cung vẫn đóng vai trò cơ bản; đó là vì: (i) Tình trạng cung vượt cầu chỉ xẩy ra đối với một số nhóm hàng, trong khi đối với nhiều nhóm hàng khác, vẫn trong tình trạng cung không đáp ứng nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu, đồng thời thâm hụt ngoại thương ngày càng lớn; (ii) Tình trạng cung vượt cầu chỉ xẩy ra trong một số năm (từ năm 1998-2001); trong những năm gần đây, đã có hiện tượng lạm phát tăng lên (năm 2002 là 4%, năm 2003 là 3% và năm 2004 khoảng 10%), mà nguyên nhân chính là mất cân đối cung cầu trên thị trường hàng hoá; (iii) Trong bất kỳ giai đoạn nào, việc tăng trưởng nhanh hoặc chậm của nền kinh tế đều phụ thuộc rất lớn vào vốn đầu tư. Ngay trong những năm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, một trong những nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu vốn đầu tư, trong đó có vấn đề nguồn vốn FDI giảm nghiêm trọng...
Đặc biệt, nếu nghiên cứu cho giai đoạn 2006-2010 khi nước ta trở thành thành viên đầy đủ của nhiều tổ chức kinh tế, thương mại và tài chính quốc tế, nhất là từ năm 2006 sẽ trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì thị trường của nước ta sẽ rất rộng lớn. Khi đó, vấn đề cơ bản sẽ là sức cạnh tranh của các sản phẩm của nền kinh tế nước ta trên thị trường quốc tế, mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ lao động, trình độ công nghệ và nguồn vốn đầu tư, tức là những nhân tố cung. Chính vì vậy, mô hình xây dựng để dự báo cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 sẽ cơ bản là mô hình cung.
Mặc dù cơ bản là mô hình cung, song trong một số trường hợp cụ thể, chúng tôi vẫn đưa một số biến phản ánh tác động (hạn chế song cần thiết) của các nhân tố cầu tới quá trình phát triển của một số ngành, lĩnh vực. Điều này cũng hoàn toàn tự nhiên vì nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế cung sang nền kinh tế cầu, tính hỗn hợp nửa cung, nửa cầu còn mang tính phổ biến.
Bên cạnh xây dựng các phương trình dự báo các biến sản xuất, mô hình còn bao hàm các nhân tố tài chính, tiền tệ, giá cả. Theo các lý thuyết của kinh tế thị trường, nền kinh tế thường được chia làm hai khu vực: khu vực thực và khu vực tài chính, trong đó khu vực thực phản ánh các hoạt động tính theo khối lượng (sản xuất, đầu tư, xuất nhập khẩu...) và khu vực tài chính phản ánh các hoạt động tính theo giá trị (thu chi ngân sách, tín dụng, tiền tệ, tỷ giá, giá cả...). Hai khu vực kinh tế này có gắn bó chặt chẽ với nhau trong một tổng thể thống nhất, nên việc phân tích các quan hệ tương hỗ giữa hai khối và xem xét ảnh hưởng của những thay đổi trong khối tài chính tiền tệ tới những thay đổi trong khối thực là hết sức cần thiết mặc dù mục tiêu cuối cùng của các phân tích, dự báo trong khuôn khổ đề tài này vẫn là khả năng phát triển các chỉ tiêu của khu vực thực nên những đầu ra của mô hình sẽ chủ yếu là những chỉ tiêu của khu vực thực.
Vì cơ bản là mô hình cung và nền kinh tế nước ta mới trong giai đoạn đầu phát triển (giống như trường hợp các nước công nghiệp vào thế kỷ 19 với môi trường thương mại thế giới hoàn toàn tự do) nên lô gic của mô hình phỏng được theo lý thuyết tân cổ điển (lý thuyết cung hiện đại), trước hết là mô hình Harrod - Domar. Mặc dù mô hình Harrod-Domar có một bước tiến mạnh mẽ so với mô hình cổ điển, nhưng nó vẫn còn một yếu điểm quan trọng là về dài hạn, cân bằng trong tăng trưởng kinh tế kém bền vững do những điều kiện giả định của nó quá chặt (ví dụ tỷ lệ giữa các nhân tố sản xuất như vốn và lao động... không đổi; tỷ lệ tiết kiệm và hệ số vốn - sản phẩm cố định nếu muốn duy trì tình trạng tăng trưởng bền vững; mức giá cả và lãi suất cũng không đổi theo thời gian...); nếu các tham số cơ bản trong mô hình thay đổi thì tốc độ tăng trưởng thực tế sẽ chệch xa khỏi tốc độ tăng trưởng tiềm năng, và quá trình tăng trưởng dài hạn, bền vững có nguy cơ không đạt.
Mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế thế giới ngày càng cao, xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh, nên độ phức tạp của các mối quan hệ tăng lên. Vì vậy các phát triển gần đây của lý thuyết tân cổ điển chủ yếu là tăng thêm số biến tham gia giải thích quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá, cũng như tăng thêm số biến giải thích nguồn gốc của tiết kiệm và đầu tư. Ngoài ra, cũng do độ phức tạp ngày càng cao, những phát triển gần đây cho thấy phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa lập luận lý thuyết và kiểm nghiệm thực tế thông qua ước lượng các phương trình cụ thể với các số liệu thống kê.
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, quan điểm cơ bản của lý thuyết tân cổ điển là mô tả quá trình sản xuất bằng các hàm sản xuất gộp, bao gồm nhiều nhân tố giải thích không chỉ duy nhất có nhân tố vốn vật chất. Sự gia tăng của bất kỳ nhân tố nào cũng đều kéo theo sự tăng thêm của sản xuất phù hợp với năng suất cận biên của nhân tố đó.
Đồng thời với những nhà kinh tế tân cổ điển, những nhà kinh tế hậu Keynes (tân Keynes) đã phân tích quá trình tăng trưởng với cách nhìn rộng hơn Keynes để kết hợp các nhân tố cung với các nhân tố cầu trong mô hình tăng trưởng hiện đại. Theo các nhà kinh tế hậu Keynes thuộc trường phái cơ cấu, tăng trưởng kinh tế là một quá trình biến đổi cơ cấu sản xuất cần thiết để phù hợp với thay đổi của cầu và trình độ sử dụng công nghệ cao hơn. Do tính không hoàn hảo của thị trường và khả năng di chuyển vốn bị hạn chế, quá trình dịch chuyển cơ cấu trên thường diễn ra trong điều kiện phi cân bằng. Từ đặc điểm này, việc mô hình hoá lý thuyết tăng trưởng của trưởng phái này không rõ ràng như cách mô hình hoá của lý thuyết cân bằng tổng quát. Mặt khác, trái với quan điểm tân cổ điển, tiếp cận cơ cấu không giả định có sự phân bố hoàn toàn tối ưu các nguồn lực vì cho rằng nhiều điều kiện không được thoả mãn để quá trình này có thể thực hiện được, nhất là hệ thống kinh tế không đủ mềm dẻo để duy trì hệ thống giá luôn luôn cân bằng.
Hirschman là một trong những đại diện tiêu biểu của lý thuyết cơ cấu, và cũng là đại diện tiêu biểu của thuyết tăng trưởng phi cân bằng (unbalanced growth), một nhánh của thuyết cơ cấu. Theo ông, vốn không phải là nhân tố duy nhất tạo ra quá trình tăng trưởng mà có thể khai thác những mối quan hệ bên trong và vào ra của quá trình sản xuất để tạo ra tăng trưởng. Khác với các nhà kinh tế theo thuyết tân Keynes, ông và những nhà kinh tế thuộc trường phái này đi theo tiếp cận cơ cấu để giải quyết bài toán tăng trưởng. Các nhà kinh tế thuộc trường phái cơ cấu cố gắng nhận dạng những điểm trì trệ (rigidities) đặc biệt, những điểm trễ, những lĩnh vực thiếu hụt và dư thừa, độ co dãn thấp của cung và cầu và những đặc thù khác về mặt cơ cấu của các nước đang phát triển có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế để xây dựng các chính sách tác động vào đó nhằm giảm những lệch lạc, méo mó và tháo gỡ điểm thắt nút, mở đường cho tăng trưởng. Khác với trường phái tân cổ điển coi kinh tế thị trường luôn luôn mềm dẻo và sự luân chuyển giữa các yếu tố diễn ra thông suốt, quan điểm cơ cấu nhấn mạnh độ co giãn thấp của cung và tính không hoàn hảo của thị trường, do đó hạn chế khả năng huy động các nhân tố tăng trưởng.
Các giả thuyết cơ bản của tiếp cận cơ cấu là: (i) Thay đổi cầu nội địa có liên quan chặt với thu nhập trong khi thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào sản xuất; (ii) Thị trường bên ngoài bị ràng buộc và có thời gian trễ trong điều chỉnh; (iii) Dịch chuyển cơ cấu sản xuất tạo ra phi cân bằng trên các thị trường nhân tố.
Từ các giả thuyết này, các nhà kinh tế hậu Keynes cho rằng các nhân tố xác định tăng trưởng dài hạn bao gồm các nhân tố như của thuyết tân cổ điển và những nhân tố về cơ cấu như phân bố lại các nguồn lực từ khu vực năng suất thấp sang khu vực năng suất cao, vai trò quan trọng của kinh tế quy mô và kiến thức kỹ năng, và giảm các trở ngại, khâu hẹp bên trong và ngoài. Giải thích cơ bản của thuyết này dựa trên mô hình tăng trưởng phi cân bằng.
Một trong những mô hình tiêu biểu của thuyết cơ cấu là mô hình của Chenery (1986). Đây là mô hình gộp phân tích ảnh hưởng của nhiều nhân tố tới tăng trưởng kinh tế. 7 nhân tố được đưa vào mô hình, trong đó có ba nhân tố giải thích theo quan điểm của thuyết tân cổ điển và 4 nhân tố giải thích theo quan điểm cơ cấu. Mô hình cụ thể như sau:
GY = a0 + a1 (I/Y) + a2 GL + a3 X3 + a4 XA + a5 XE + a6 XF + a7 XD
trong đó GY là tốc độ tăng trưởng GDP.
Trong mô hình này, ba nhân tố tăng trưởng theo thuyết tân cổ điển là:
(i) I/Y = tỷ lệ đầu tư trên GNP (đại diện cho nhân tố tăng trưởng tổng vốn cố định);
(ii) GL = tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động;
(iii) X3 = tốc độ tăng trưởng chất lượng lao động (hoặc giáo dục);
và bốn nhân tố tăng trưởng theo thuyết cơ cấu là:
(i) XA = thay đổi tỷ trọng vốn hoặc lao động của nông nghiệp trong nền kinh tế;
(ii) XE = tốc độ tăng trưởng xuất khẩu;
(iii) XF = tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai;
(iv) XD = chỉ tiêu đại diện cho trình độ phát triển hoặc công nghiệp hoá.
(i) I/Y = tỷ lệ đầu tư trên GNP (đại diện cho nhân tố tăng trưởng tổng vốn cố định);
(ii) GL = tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động;
(iii) X3 = tốc độ tăng trưởng chất lượng lao động (hoặc giáo dục);
và bốn nhân tố tăng trưởng theo thuyết cơ cấu là:
(i) XA = thay đổi tỷ trọng vốn hoặc lao động của nông nghiệp trong nền kinh tế;
(ii) XE = tốc độ tăng trưởng xuất khẩu;
(iii) XF = tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai;
(iv) XD = chỉ tiêu đại diện cho trình độ phát triển hoặc công nghiệp hoá.
Căn cứ vào lập luận của các lý thuyết trên và dựa theo kinh nghiệm xây dựng các mô hình kinh tế lượng của các nước khác, trong mô hình thực nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam, chúng tôi sẽ kết hợp sử dụng các nguyên tắc của mô hình cung với những phát triển tiếp theo lý thuyết tân cổ điển có bổ sung một số nhân tố cầu của thuyết cơ cấu.
Để thuận tiện cho nghiên cứu, mô hình sẽ bao gồm 3 khối: khối thực, khối tài chính tiền tệ và khối ngoại thương. Trong khối thực, theo lý thuyết tân cổ điển, sản xuất của các ngành được xác định căn cứ vào các yếu tố đầu vào của sản xuất bao gồm lao động, vốn đầu tư, nhập khẩu tư liệu sản xuất..., nhưng đồng thời cũng có thể chịu tác động của một số nhân tố cầu như nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Khối tài chính, tiền tệ sẽ xác định các chỉ tiêu thu chi ngân sách, cung ứng tiền tệ và lạm phát. Về tài chính, lô gíc của mô hình dựa trên lý thuyết tài chính cơ bản được sử dụng rộng rãi trong khoa học kinh tế học của sự phát triển và tại các nước đang phát triển, trong đó thu ngân sách phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế (cơ sở thu thuế) trong khi chi ngân sách phụ thuộc vào thu và chính sách đầu tư của chính phủ; tỷ lệ thâm hụt ngân sách được coi là biến ngoại sinh vì trong điều kiện nước ta, đây là công cụ của Nhà nước để thực hiện chính sách kích cầu hoặc kích cung từ ngân sách.
Khối xuất nhập khẩu được xây dựng theo nguyên tắc của mô hình cầu nhưng có bổ sung các nhân tố của lý thuyết cạnh tranh quốc tế. Một mặt, xuất khẩu phụ thuộc vào cầu của các nước bạn hàng gửi đến nền kinh tế nước ta trong khi nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt khác, cả hai biến này đều phụ thuộc vào sức cạnh tranh về giá của nền kinh tế thông qua yếu tố tỷ giá thực, đại diện bằng chênh lệch giữa giá trong nước và giá quốc tế. Trên cơ sơ giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá, sẽ ước tính giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ và đưa vào phương trình cân bằng tổng quát trong bảng hạch toán tài khoản quốc gia.
Nhìn tổng quát, mô hình gồm 75 phương trình, trong đó có 32 nhận dạng và 43 phương trình hành vi, với 75 biến nội sinh và khoảng 35 biến ngoại sinh. Các biến ngoại sinh tương đối đủ để có thể phân tích, mô phỏng và dự báo ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô và biến động của môi trường tới tăng trưởng trung hạn.
Để đơn giản quá trình tính toán, các phương trình của mô hình đều được ước lượng theo phương pháp bình phương cực tiểu. Thực tế, các kết quả ước lượng theo phương pháp này nói chung đều đạt yêu cầu về kỹ thuật kinh tế lượng trong khi một số thử nghiệm ước lượng lại bằng phương pháp bình phương cực tiểu hai bước đều không tạo ra những thay đổi đáng kể về các hệ số ước lượng từ phương pháp bình phương cực tiểu.
Mặt khác, hầu hết các phương trình trong mô hình đều là các hàm logarit hoặc hàm quan hệ tỷ lệ (ví dụ tỷ lệ lạm phát phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng GDP...) trong khi các biến thuộc loại này thường thoả mãn tiêu chuẩn dừng, tức là có thể mô hình hoá trực tiếp bằng phương pháp bình phương cực tiểu.
Báo cáo này chỉ giới thiệu mô hình gốc, các phiên bản khác phục vụ nhiều mục tiêu dự báo khác nhau được lưu tại ban chủ nhiệm đề tài. Tiếp theo mô hình này, trong quá trình phân tích dự báo đến năm 2010 thực hiện trong năm 2005 tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sẽ phải liên tục cải tiến lại các phương trình để mô hình bám sát tính hình, cập nhật được những thông tin mới nhất, từ đó đảm bảo chất lượng dự báo. Các số liệu để xây dựng mô hình chủ yếu được lấy từ các Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục thống kê, từ nguồn số liệu của Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và từ những thông tin đã tích luỹ được trong giai đoạn xây dựng các mô hình trước.
Cơ cấu của báo cáo này được bố trí như sau:
Chương 1 sẽ được dùng để đánh giá tổng quan tiến triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn từ khi đổi mới năm 1986 đến nay, nhằm phân tích quá trình phát triển và bước đầu chỉ ra nguyên nhân của quá trình đó, cũng như phân tích các mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố vĩ mô. Đây là cơ sở và nền tảng để thiết kế mô hình vì thông qua những phân tích trên, sẽ nhận dạng được những đặc trưng và quan hệ nhân quả cơ bản của nền kinh tế, do đó có thể thực hiện được quá trình mô hình hoá nền kinh tế.
Chương 2 sẽ là phần mô tả chi tiết nội dung của việc xây dựng mô hình, gồm xây dựng các phương trình lý thuyết và phương trình thực nghiệm, đánh giá chất lượng mô hình và lựa chọn mô hình để sử dụng.
Chương 3 sẽ được dành để mô tả các kết quả mô phỏng, các kết quả phân tích và dự báo trung hạn cho các năm 2005-2010.
No comments:
Post a Comment