Showing posts with label Trung Quốc. Show all posts
Showing posts with label Trung Quốc. Show all posts

Wednesday, August 14, 2013

(3) Bên trong cơ quan quyền lực tối cao Trung Quốc

Bên trong cơ quan quyền lực tối cao Trung Quốc
Trung Nam Hải có các tòa nhà cổ kính bên hồ với lính gác canh phòng cẩn mật và bí ẩn. Các chính sách quan trọng bậc nhất Trung Quốc, thậm chí ảnh hưởng đến toàn thế giới, được phát đi từ đây.
Khẩu hiệu bên ngoài khu vực Trung Nam Hải ở đường Tràng An, Bắc Kinh, 
viết: "Đảng Cộng sản Trung Quốc vĩ đại muôn năm". Ảnh: Asahi Shimbun
Cảnh sát vây quanh một người phụ nữ trung niên khi bà này dừng lại trên đường Tràng An ở trung tâm Bắc Kinh vào lúc 9h sáng và mở túi vải của mình ra. Cảnh sát yêu cầu bà nhanh chóng rời khỏi đây. Không rõ là bà định làm gì với chiếc túi, trong đó có chứa chất độc hại gì không, hay chỉ đơn giản là lấy khăn ra lau mồ hôi.

Tuy nhiên, việc yêu cầu người phụ nữ nhanh chóng rời đi là một trong các biện pháp an ninh luôn luôn nghiêm ngặt xung quanh Trung Nam Hải, nằm ở phía tây Tử Cấm Thành, nơi ban hành các quyết sách quan trọng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và quốc gia có số dân hơn 1 tỷ người.

Trung Nam Hải luôn là một bí ẩn, là chốn "thâm cung" của đảng và chính phủ Trung Quốc, cũng chính là nơi đưa ra các quyết định có thể làm thay đổi các sự kiện toàn cầu. Trung Nam Hải cũng là nơi các lãnh đạo tối cao của Trung Quốc làm việc và sinh sống.

Nơi này tương tự như là Nhà Trắng ở Mỹ hay Nhà Xanh ở Hàn Quốc. Nó cũng gợi lên hình ảnh của Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản hay điện Kremlin thời Liên Xô.

Đây là nơi cố chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông và thủ tướng Chu Ân Lai từng sống. Ở đây cũng diễn ra các cuộc gặp lịch sử với các lãnh đạo nước ngoài như với tổng thống Mỹ Richard Nixon và thủ tướng Nhật Kakuei Tanaka. Trung Nam Hải ngày nay do Tổng bí thư Tập Cận Bình đứng đầu.

"Quyết định cuối cùng về việc xử lý vấn đề đảo Điếu Ngư như thế nào chỉ có thể được đưa ra ở Trung Nam Hải", một nhà ngoại giao từng vào khu vực được canh phòng cẩn mật, nói với Asahi Shimbun. Điếu Ngư là tên tiếng Trung của quần đảo mà Nhật Bản gọi là Senkaku. Trung Quốc và Nhật Bản có tranh chấp chủ quyền quần đảo.

Một nhà nghiên cứu ở cơ quan cố vấn cho chính phủ cho biết: "Các quyết định quan trọng của Trung Quốc được đưa ra ở Trung Nam Hải trong vòng bí mật. Ngay cả chúng tôi còn không rõ là nó được vận hành như thế nào thì người nước ngoài càng khó để hiểu về nó".

Ảnh hưởng của Trung Nam Hải rất rộng rãi, đặc biệt có thể thấy rõ ở Đan Đông, khu vực gần biên giới Triều Tiên thuộc tỉnh Liêu Ninh, hồi tháng 4 vừa qua.

Trong bộ comple trịnh trọng, các quan chức cấp cao của tỉnh Bắc Phyongan vượt sông Áp Lục từ Triều Tiên tới Đan Đông để gặp gỡ các quan chức địa phương ở đây.

"Chúng tôi muốn các ông nối lại việc xuất khẩu xăng dầu", quan chức Triều Tiên đề nghị. Quan chức Đan Đông không đáp ứng yêu cầu. "Không thể làm gì được nếu không có quyết định của trung ương", nguồn tin nói.

Sau khi Bình Nhưỡng phóng thành công tên lửa hồi tháng 12, chính phủ Trung Quốc thể hiện sự không hài lòng với đồng minh lâu năm của mình. Đường ống dẫn dầu giữa hai quốc gia, biểu tượng của mối quan hệ khăng khít, hàng ngày vẫn tiếp tục bơm dầu sang Triều Tiên. Tuy nhiên, Trung Quốc tạm dừng các chuyến chở dầu xuất phát từ Đan Đông và Đại Liên đi Triều Tiên.

Trung Quốc còn có những biện pháp mạnh tay hơn với Triều Tiên vì những hành động của nước này. 4 ngân hàng nhà nước của Trung Quốc đã ngừng chuyển tiền tới Triều Tiên và các kiểm tra hải quan trở nên gắt gao hơn. Những người Triều Tiên đến và đi khỏi Trung Quốc bây giờ phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định mang theo 20 kg hành lý. Trước đó, việc chấp hành quy định này khá lỏng lẻo dẫn đến những chỉ trích của quốc tế về lệnh trừng phạt kinh tế với Triều Tiên.

"Các biện pháp chặt chẽ hơn thể hiện ý định của các nhà lãnh đạo tối cao là không đối xử đặc biệt với Triều Tiên nữa", nguồn tin trong cơ quan cố vấn cho chính phủ nói. "Tất cả những quyết định này đều được đưa ra ở Trung Nam Hải".

An ninh nghiêm ngặt


Bên trong Trung Nam Hải, nhìn từ công viên Bắc Kinh, phía bắc của khu nhà. Ảnh: Asahi Shimbun
Bức tường bao quanh Trung Nam Hải được sơn màu đỏ, đằng sau cánh cổng đôi là dòng chữ: "Vì dân phục vụ". Tường bao cao khoảng gấp đôi chiều cao trung bình của một người lớn, và camera theo dõi được gắn ở khắp nơi.

Trung Nam Hải được xây từ thời nhà Kim thế kỷ 12 và tiếp tục được tu bổ vào thời nhà Nguyên, Minh và có hình dáng như hiện tại từ thời nhà Thanh. Theo các tài liệu của chính phủ Trung Quốc, khu nhà rộng hơn 100 hecta, có khoảng 150 lầu, và các tòa nhà được xây dọc theo ba chiếc hồ nhân tạo và nối với nhau bằng hai chiếc cầu.

Khu vực xung quanh chiếc hồ ở phía bắc được mở làm công viên công cộng, công viên Bắc Hải, trong khi hai chiếc hồ còn lại ngày nay, Trung Hải và Nam Hải, tạo nên khu đầu não Trung Nam Hải. Chỉ một số ít quan chức cấp cao nhất có văn phòng ở đây, bao gồm 25 thành viên Bộ Chính trị.

Sự hòa quyện giữa các cung điện truyền thống và các tòa nhà hiện đại của thủ đô Bắc Kinh cũng có thể được nhìn thấy ở trong Trung Nam Hải. Tuy nhiên, toàn bộ khu vực được tách biệt ra khỏi một Bắc Kinh sôi động ở phía bên ngoài bức tường.

Theo một cựu quan chức của cơ quan hỗ trợ công việc cho các Ủy viên thường trực Bộ Chính trị, thì 7 ủy viên thường trực làm việc tại Cần Chính Điện. Các văn phòng được nối với nhau bằng một hệ thống hành lang dài. Trong các tòa nhà có giường và nhà tắm và được các trợ lý và vệ sĩ bảo vệ cẩn mật. Thậm chí, có cả những văn phòng dưới hầm ngầm.

Vũ Hà (theo Asahi Shimbun)

(2) Bể bơi của các nhà lãnh đạo tối cao Trung Quốc

Bể bơi của các nhà lãnh đạo tối cao
Có thể chỉ câu nói vui giữa ông Tập Cận Bình và Obama, nhưng nó lại tiết lộ thông tin rằng có một bể bơi phía bên trong Trung Nam Hải, nơi các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc làm việc và sinh sống.
Bể bơi bên trong Trung Nam Hải những năm 1970. 
Ảnh do một nguồn tin cung cấp choAsahi Shimbun.
Ngày 6/8 tại California, Mỹ, Tổng thống Mỹ Barack Obama hỏi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bí quyết giữ gìn vóc dáng. Ông Tập giơ ngón tay trỏ và trả lời rằng đó là bơi lội.
Trước các phóng viên, ông nói: "Tôi bơi, 1.000 m mỗi ngày. Nếu chúng ta không tập thể dục, chúng ta sẽ không đủ sức để lo liệu mọi việc. Chúng ta rất bận rộn".
Mặc dù ông Tập không tiết lộ địa điểm ông bơi lội, nhưng chắc hẳn mọi người có thể hiểu rằng có bể bơi bên trong Trung Nam Hải. 

Cũng giống như chính Trung Nam Hải, bể bơi ở đây cũng không được biết đến nhiều. Một lãnh đạo cấp cao khác của Trung Quốc cũng rất yêu thích chiếc bể bơi là Mao Trạch Đông.

Theo hồi ký của một quan chức cấp cao trong đảng, Mao Trạch Đông đã cải tiến phòng thay đồ của bể bơi thành phòng ngủ và văn phòng. Ông dành những ngày cuối đời ở chính căn phòng này.

Ông cũng chuyển phòng nghỉ bên cạnh bể bơi thành phòng đọc sách, với 3 giá sách kê bên 3 bức tường. Ông ngồi ở sofa với chiếc đèn cây cao để suy nghĩ và đọc sách.

Ông Mao rất thích phòng đọc đó nên ông đã tiếp thủ tướng Nhật khi đó Kakuei Tanaka trong chuyến thăm Trung Quốc của ông này năm 1972 ở đây và đàm phán về việc bình thường hóa quan hệ. Tổng thống Mỹ Richard Nixon cũng được tiếp đón tại căn phòng bên bể bơi.

Theo một đảng viên lão thành có thời thơ ấu lớn lên tại Trung Nam Hải từ những năm 1950-1960, chủ tịch Mao Trạch Đông ưa thích kiểu bơi sải và bơi rất lâu tại bể bơi.

Một câu truyện truyền miệng kể về bể bơi là vào năm 1958, khi Nikita Khrushchev, bí thư thứ nhất của Liên Xô, tới thăm Trung Quốc. Mao Trạch Đông mời Khrushchev tới bơi và cười lãnh đạo Liên Xô vì động tác bơi không chuyên của ông này.

Các đảng viên còn nghe nhiều câu chuyện khác từ các nhân viên làm việc trong Trung Nam Hải và chăm sóc cho chủ tịch Mao.

Một ngày vào khoảng những năm 1950, vào thời gian Trung Quốc đang tiến hành phong trào Đại nhảy vọt mà sau này phải kết thúc vì gặp phải mất mùa và người dân đói kém, chủ tịch Mao đang bơi thì bất ngờ chìm xuống nước.

Sau khi nổi lên, ông nói với các nhân viên rằng: "Thật ra con người nổi trên mặt nước rất dễ và làm ngược lại mới khó". Ông chia sẻ với các nhân viên bí quyết muốn chìm là "phải bình tĩnh và thở ra từ từ".

Vũ Hà (Theo Asahi Shimbun)

(1) Phòng họp của giới quyền lực nhất Trung Quốc

Phòng họp của giới quyền lực nhất Trung Quốc
Những cuộc họp kín của các ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc diễn ra trong căn phòng rộng gần 100 m2. Nguyên tắc được đề cao nhất trong các cuộc họp của những người quyền lực nhất này là: thống nhất.
Bức ảnh chụp Cần Chính Điện năm 1949, sau khi nước 
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Ảnh: CFP
Việc họp bàn diễn ra ở Cần Chính Điện, là tòa nhà nằm trên một dải đất hẹp giữa hai chiếc hồ nhân tạo, Trung Hải và Nam Hải, trong khuôn viên Trung Nam Hải. Căn phòng giản dị bên trong Cần Chính Điện chính là nơi Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị Trung Quốc tụ họp và là nơi ban hành những chính sách quan trọng nhất của đất nước.
Ông Bào Đồng, 80 tuổi, từng là trợ lý cho ông Triệu Tử Dương thời ông Triệu là tổng bí thư những năm 1980 mô tả lại cảnh tượng căn phòng và không khí các cuộc họp.

"Không có trang trí gì trong phòng họp. Điều duy nhất đập vào mắt chỉ là màu xanh ngút ngát của những rặng cây bên ngoài cửa sổ", ông Bào nói.

Nhà chức trách Trung Quốc chưa bao giờ công khai thông tin về những cuộc họp như vậy.

Cần Chính Điện được cho là nơi làm việc của Hoàng đế Quang Tự cuối đời nhà Thanh của Trung Quốc. Tòa nhà được sửa sang lại sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949.

Ông Bào nhớ lại cuộc gặp vào khoảng năm 1987, khi một tuyên bố quan trọng được đưa ra: "Tôi muốn đề cử đồng chí Giang Trạch Dân làm bí thư thành ủy Thượng Hải. Các đồng chí nghĩ sao về việc này?"

Sau khi ông Triệu Tử Dương bị bãi nhiệm chức vụ tổng bí thư vào tháng 5/1989 vì có xu hướng ủng hộ các nhà hoạt động dân chủ, ông Giang Trạch Dân được đề cử thay thế ông Triệu. Cuộc họp năm 1987 thảo luận về việc thăng chức cho ông Giang lên vị trí quan trọng ở Thượng Hải.


Tấm bảng Tân Hoa Môn và dòng chữ "Vì nhân dân phục vụ" 
tại cổng chính của Trung Nam Hải. Ảnh: Sina
Các cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị được tổng bí thư triệu tập. Vào những năm 1980, một tuần diễn ra một hoặc hai cuộc họp. Các cuộc họp thường được tiến hành với việc tất cả các thành viên thường vụ bày tỏ quan điểm về các nội dung mà tổng bí thư đưa ra.

Những vị lão thành cách mạng như Dương Thượng Côn, Vạn Lý và Bạc Nhất Ba, được mời tham dự và phát biểu ý kiến. Sau khi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình rời khỏi Ủy ban Thường vụ năm 1987, ông không bao giờ tham dự những cuộc họp như thế này nữa, nhưng những trợ lý của ông luôn xuất hiện và ghi chép kỹ lưỡng.

Phòng họp rộng khoảng 100 m2 và có chiếc bàn hình chữ nhật dài khoảng 5-6 m. Tổng bí thư luôn luôn ngồi ở vị trí quan trọng nhất trong khi các thành viên khác có thể ngồi đâu tùy theo ý muốn. Các trợ lý ngồi tại hàng ghế kê sát tường.

Nguyên tắc của các cuộc họp là nhất trí. Nếu có ý kiến phản đối thì có thể sửa đổi đề xuất ban đầu. Nếu không thống nhất được ý kiến, tổng bí thư sẽ nói "fangqi" (bỏ qua) và vấn đề sẽ được quyết định sau.

Ông Bào kể rằng trong 9 năm ông tham dự các cuộc họp, chưa có trường hợp nào quyết định được ban hành dựa trên nguyên tắc đa số, mà hoàn toàn dựa trên sự nhất trí. Đây là truyền thống được đặt ra để ngăn chặn sự chia rẽ trong nội bộ các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng.

Vì không bỏ phiếu theo nguyên tắc đa số, nên các lãnh đạo thời đó chỉ có một sự lựa chọn là làm theo ý kiến mà lãnh đạo cao nhất đưa ra mỗi khi có các ý kiến khác biệt.
(Còn nữa)

Vũ Hà (Theo Asahi Shimbu)

Kinh tế Trung Quốc hạ cánh nặng nề: Nhiều nước âu lo

Kinh tế TQ hạ cánh đã làm khối nước âu lo. Do đó lúc nó phá sản thì hậu quả tàn phá còn khủng khiếp hơn. Tuy nhiên cũng đừng quá lo vì sau đó thế giới sẽ rũ bùn, đứng dậy sáng lòa. Đồng thời nguy cơ bành trướng của TQ cũng giảm hẳn, đây mới là hậu quả tích cực của sự sụp đổ của TQ.

Kinh tế Trung Quốc hạ cánh nặng nề : Nhiều nước âu lo
Cảng container Doanh Khẩu, Liêu Ninh. 
Ảnh chụp 9/08/ 2013. (REUTERS/Stringer)
Sau nhiều đợt báo động liên tiếp, gần đây nhất là của tập đoàn ngân hàng Pháp Société Générale, về khả năng suy trầm sắp tới của nền kinh tế Trung Quốc, ngày 08/08/2013 vừa qua, công ty thẩm định tài chánh quốc tế Standard & Poor's vừa loan tin : Nếu Trung Quốc "hạ cánh nặng nề" với tốc độ tăng trưởng chỉ còn là 5% một năm, thì sẽ khiến nền kinh tế của Úc bị suy trầm và thất nghiệp tăng vọt lên mức 10%. Theo giới phân tích, trong kịch bản đó, không chỉ có Úc, mà nhiều quốc gia khác cũng chịu tác động.

Phải nói là sau nhiều thập niên tăng trưởng vượt bậc, kinh tế Trung Quốc đã bắt đầu có dấu hiệu co thắt, và lãnh đạo mới của nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới đã phải điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng là 7,5% trong năm nay (2013) và 7% trong mấy năm tới.

Thế nhưng giới quan sát kinh tế quốc tế cho rằng đà tăng trưởng ấy vẫn còn cao so với thực tế, và một kịch bản « hạ cánh nặng nề - hard landing » có thể xảy ra. Trong trường hợp đó, hiệu ứng suy trầm của Trung Quốc có thể lan rộng ra nhiều xứ khác, kể cả Úc hay Việt Nam.

Phân tích của Standard & Poor's chỉ tập trung vào trường hợp nước Úc vì lẽ Bắc Kinh là đối tác thương mại chủ chốt của Canberra, chuyên mua các loại khoáng sản, nguồn xuất khẩu chính của Úc. Trong nghiên cứu của mình, S&P đã dự trù ba kịch bản cho nền kinh tế Trung Quốc, và các tác động có thể có trên nền kinh tế Úc.

Kịch bản thứ nhất gọi là « trường hợp căn bản – base case », có nghĩa là kinh tế Trung Quốc tăng trưởng theo tỷ lệ 7,3% trong tài khóa 2013, gần đúng với ước tính của chính quyền Bắc Kinh. Trong trường hợp này, kinh tế Úc sẽ chỉ đạt tăng trưởng 2,5% trong năm 2013, và 2,9% năm 2014, còn tỷ lệ thất nghiệp lần lượt ở mức 5,7% và 6%.

Kịch bản thứ hai là « hạ cánh trung bình – medium landing », tức là tăng trưởng Trung Quốc giảm manh hơn, chỉ đạt 6,8%. Hệ quả đối với Úc sẽ là một tỷ lệ tăng trưởng 2,1% cho năm 2014 và một mức thất nghiệp 6,5%.


Kịch bản tệ hại nhất gọi là « hạ cánh nặng nề - hard landing », với GDP của Trung Quốc bất ngờ chỉ tăng trưởng 5%. Trong trường hợp này, kinh tế Úc sẽ bị co thắt với tỷ lệ âm 1% trong năm 2014, còn tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên thành 10% . Không những thế, Úc sẽ còn bị mất điểm cực tốt ba chữ A, dùng để đánh giá các nền kinh tế phát triển lành mạnh.


Standard & Poor's cũng công nhận là kịch bản « hạ cánh nặng nề » là một khả năng « khó xẩy ra ». Cho dù vậy, hãng thẩm định tài chánh này cho rằng nhiều mối lo ngại về kịch bản đó đang xuất hiện vào lúc kinh tế Trung Quốc bộc lộ một số điểm yếu kém.

Trả lời phỏng vấn hôm nay của RFI, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ sẽ giải thích thêm về tình trạng hạ cánh không an toàn của một nền kinh tế, cũng như tác động có thể có của hiện tượng này đối với các nền kinh tế khác trên thế giới.


RFI: Xin thân ái chào anh Nghĩa. Là người nhiều lần dự báo rằng kinh tế Trung Quốc sẽ sa sút vì những vấn đề chồng chất ở bên trong, hiển nhiên là anh không mấy ngạc nhiên với kịch bản "hạ cánh nặng nề" của Trung Quốc mà công ty Standard & Poor's vừa nhắc tới. Kỳ này, xin đề nghị anh phân tích hậu quả quốc tế từ nạn suy trầm kinh tế của một quốc gia đang có nền kinh tế hạng nhì thế giới sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trước hết, thưa anh giới kinh tế cứ nói đến chuyện "hạ cánh nặng nề", thì đấy là cái gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau một giai đoạn tăng trưởng cao kéo dài khá lâu, nếu sản lượng kinh tế lại đột nhiên co cụm mạnh thì đấy là một vụ "hạ cánh nặng nề". Muốn tính ra một con số để định nghĩa về hạ cánh nhẹ nhàng, hạ cánh nặng nề, thậm chí hạ cánh tan tành thì còn tùy tốc độ tăng trưởng nguyên thủy, thí dụ như 9-10% của Trung Quốc trong 20 năm liền. Theo định nghĩa của S&P thì nếu kinh tế xứ này chỉ tăng 5% đã là hạ cánh nặng nề.

- Với Trung Quốc, ta khó xác định một con số chính xác vì nhiều lý do. Thứ nhất, số liệu kinh tế của họ thiếu sự chuẩn xác đáng tin mà chỉ phản ảnh một trào lưu. Thứ hai, xưa nay lãnh đạo xứ này vẫn coi 7% là đà gia tăng tối thiểu để tránh động loạn và nay đành chấp nhận một chỉ tiêu thấp hơn trong khi phải tiến hành cải cách để tìm lực đẩy khác hơn là đầu tư và xuất cảng. Thứ ba, dù phải chuyển hướng như vậy, họ vẫn sợ gây ra hốt hoảng nên có những lý luận hay dữ kiện tô hồng, và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đang làm ăn tại Hoa lục cũng nói theo để trấn an thị trường, vì vậy định mức "hạ cánh nặng nề" trở thành cái gì đó khá co giãn.

- Tuy nhiên, sự thể khách quan là sau Nhật Bản năm 1991, Anh quốc năm 92, Nam Hàn năm 97 và Hoa Kỳ năm 2008, Trung Quốc khó tránh khỏi một vụ khủng hoảng tài chánh vì mắc nợ quá nhiều. Sau đó là giai đoạn co rút kéo dài. Nếu lãnh đạo xứ này thành công trong việc cải cách từ lượng sang phẩm và nâng sức tiêu thụ nội địa từ 35% hiện nay lên 50% thì kinh tế Trung Quốc chỉ có đà tăng trưởng khoảng 3-4% trong mươi năm tới. Sau giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục và mua vào nguyên nhiên vật liệu để sản xuất đến dư thừa, khi kinh tế Trung Quốc bị thoái trào thì quả thật là thế giới có thể bị ảnh hưởng. Nhưng thật ra thế giới không chỉ có Trung Quốc.

RFI: Anh nói thế giới không chỉ có Trung Quốc vì nghĩ đến các khối kinh tế khác hay sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng nếu muốn nhìn ra bối cảnh rộng lớn của một vụ suy trầm, thậm chí suy thoái, là dépression tại Trung Quốc, chúng ta cũng nên nhìn ra nhiều chuyển động lớn của các nền kinh tế khác sau năm năm khá đặc biệt vừa qua.

RFI: Anh nói về những chuyển động lớn sau năm năm vừa qua, đấy là gì và có ảnh hưởng thế nào đến tình trạng co thắt tại Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau vụ khủng hoảng và Tổng suy trầm 2008-2009, người ta vội chôn sống khối kinh tế đã phát triển Âu-Mỹ-Nhật và đặt kỳ vọng vào các nước đang phát triển, đứng đầu là nhóm B.R.I.C, gồm có Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Vì sự hồ hởi sảng đó, tiền đầu tư đã từ Tây phương trút về Đông và tìm lực đẩy của các nền kinh tế đang lên.

- Bây giờ tình hình lại đảo ngược. Khối công nghiệp hoá Tây phương là Âu, Mỹ, Nhật, đã chấn chỉnh lại thất quân bình và tạm hồi phục. Dù chưa mạnh thì cũng đóng góp đến 60% vào sản lượng phụ trội của kinh tế thế giới. Ngược lại, các nền kinh tế đang lên đều có triệu chứng hụt hơi và hết là đầu máy tăng trưởng toàn cầu, kể cả nhóm BRIC này.

- Vụ Trung Quốc hạ cánh cần đặt trong bối cảnh rộng hơn vì liên hệ đến chiều hướng tái cân bằng chung. Tất nhiên là một xứ chuyên bán quặng sắt cho tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hóa của Trung Quốc như nước Úc phải hụt hẫng và sợ nạn suy trầm cùng thất nghiệp. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy. Về không gian, các nước sống nhờ bán nguyên liệu hay thương phẩm đệ nhất đẳng đều bị thiệt hại. Về thời gian thì sự thoái lui của Trung Quốc không chỉ là một chu kỳ co cụm đột ngột và nhất thời mà có thể kéo dài cả chục năm.

RFI: Thưa anh, trong bối cảnh rộng lớn và lâu dài như anh vừa có ý nhấn mạnh thì người ta vẫn tự hỏi vì sao riêng Trung Quốc có thể bị suy sụp nặng như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Một cách ngắn gọn thì Trung Quốc có ưu thế số một là dân số rất đông và họ khai thác thành lợi thế lương rẻ để sản xuất các mặt hàng chế biến rẻ hơn thiên hạ, nhất là các nước công nghiệp hoá. Vì thế họ tổ chức hệ thống sản xuất quanh lợi thế này và vì cả nước còn nghèo nên chẳng mua nổi sản lượng quá lớn đó thì họ phải xuất cảng. Mặt kia, họ còn phải tiếp tục đầu tư và sản xuất cực rẻ với mức lời thật thấp để tạo ra việc làm và tránh động loạn. Hai yêu cầu trái ngược đó dẫn tới sự thể là họ dựng lên một hệ thống sản xuất kém hiệu năng, đầy lãng phí mà cứ tính vào số tăng trưởng làm thế giới khâm phục.

- Thế rồi, khi kinh tế toàn cầu bị suy trầm làm xuất cảng sa sút, Trung Quốc phải bơm tiền kích thích, mà lại kích thích nạn sản xuất thừa và trợ cấp cho sự bất tài rồi chất lên núi nợ thối. Vì vậy, khủng hoảng tài chánh dễ bùng nổ. Sau đó là nạn suy trầm, cho đến ngày nào đó mà họ có thể kích thích tiêu thụ thay vì kích thích sản xuất loại hàng kém phẩm chất và gây ô nhiễm và lỗ lã. Chuyện hạ cánh nặng nề là kịch bản có xác suất cao của tình trạng quái đản này.

RFI: Câu hỏi cuối, thưa anh, nếu sự thể xảy ra như vậy thì tình hình các nước sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta có thể nhìn từ hai vế khác nhau.

- Trung Quốc bán ra hàng chế biến với giá rẻ nên cạnh tranh với các nước đang phát triển cùng trình độ kỹ thuật hay kém hơn khi thu hút đầu tư và tăng gia sản xuất. Nhưng khốn nỗi xứ này "chưa giàu đã già" và lợi thế nhân công rẻ của họ đã hết. Khi kinh tế suy trầm thì cả triệu doanh nghiệp phá sản, ngân hàng vỡ nợ và cả chục quốc gia sẽ có cơ hội trám vào khoảng trống của Trung Quốc nếu có nhân công tương đối rẻ và có tay nghề. Cơ hội đó cũng khiến các nước ấy có thể tiếp nhận thêm đầu tư của nước ngoài. Đó là trong trung hạn vài ba năm, chứ trước mắt thì vẫn là nhiều biến động đột ngột thất thường. Nhưng đột ngột hơn cả lại thuộc về vế kia.

- Để duy trì đà tăng trưởng ảo và sản xuất đến dư thừa, Trung Quốc ào ạt mua vào nguyên nhiên vật liệu, như năng lượng, nguyên liệu gốc kim loại cho công nghiệp, làm giá thương phẩm tăng vọt và đem lại mối lợi cho các nước xuất cảng. Khi kinh tế sa sút thì giá thương phẩm sụt mạnh, các nước xuất cảng đều vừa mất thị trường vừa mất mối lợi là bán ra loại hàng cao giá. Các nước như Brazil, Nga, Nam Phi hay Venezuela, chứ không chỉ có Úc Đại Lợi mới bị điêu đứng nặng vì bán nguyên liệu. Và mấy dự án bauxite tại Việt Nam lại càng sớm vỡ nợ! Giá dầu thô cũng có thể giảm vì Trung Quốc là nước ngốn dầu nhiều nhất nên gây họa cho các nước bán dầu từ Đông Nam Á qua Trung Đông.

- Song song, Trung Quốc lại mắc cái tật là "chưa hùng đã hung" nên mua vào rất nhiều võ khí và quân cụ. Khi kinh tế suy trầm thì khoản nhập cảng quân sự ấy cũng giảm. Liên bang Nga sẽ bị thiệt hai lần vì hết là nơi tiếp liệu võ khí và lại thất thế vì năng lượng sụt giá. Dầu thô mà rớt dưới 90 đô la một thùng là ngân sách của ông Putin bị lủng.

- Trong khi đó, nhà nước Trung Quốc vẫn có tiền. Khi có biến thì họ càng tẩu tán tài sản ra ngoài để khỏi sợ lỗ, nhưng không qua ngả đầu tư vào các nguồn tiếp vận thương phẩm hay năng lượng ở các nước Á Phi hay Nam Mỹ, mà chạy vào Mỹ và các nước công nghiệp hoá vì an toàn hơn.

- Nói chung, tôi nghĩ rằng người ta mới chỉ chớm thấy một sự xoay chuyển mấy chục năm mới có một lần nên sẽ còn thời giờ quan sát và điều chỉnh những dự đoán sau này.

RFI: Đài RFI xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa đã trả lời từ Hoa Kỳ.

Mai Vân (RFI)

'Biệt thự trên nóc nhà' gây phẫn nộ

'Biệt thự trên nóc nhà' gây phẫn nộ

Người chủ có thể phải phá bỏ căn biệt thự
Chính quyền thành phố Bắc Kinh dọa dỡ bỏ căn biệt thự “núi đá” trên nóc tòa chung cư 26 tầng giữa thủ đô Trung Quốc.
Công trình với núi đá, vườn cây giả được một ông chủ của chuỗi cơ sở y học cổ truyền xây trong sáu năm.
Những người hàng xóm giận dữ nói suốt nhiều năm họ đã than phiền với chính quyền về công trình 800 mét vuông không có giấy phép này. 
“Ông ta rất kiêu ngạo, không thèm quan tâm việc tôi không hài lòng,” một người hàng xóm nói.
Các quan chức quản lý khu đô thị quận Haidian nay tuyên bố sẽ dỡ bỏ ngôi nhà sau 15 ngày nếu người chủ không trình ra giấy phép hợp lệ.

Chính quyền chỉ bắt đầu có hành động sau khi các bức hình chụp được truyền thông Trung Quốc đăng tải rộng rãi hôm 12/8.

Có tờ báo chạy dòng tít: “Công trình phi pháp đáng phẫn nộ nhất Bắc Kinh.”

Vụ việc được người dân Trung Quốc quan tâm, xem đây là ví dụ của việc người giàu có và nhiều quan hệ thường được biệt đãi.

Các xe hơi đắt tiền không biển số là cảnh tượng thường thấy. Trong khi đó, nhà cửa sang trọng mọc lên quanh Bắc Kinh và những nơi khác thường được lấy từ đất của người nông dân mà không đền bù thỏa đáng.

Đầu năm nay, thủ đô Bắc Kinh mở chiến dịch phá bỏ những ngôi nhà không phép, mặc dù giới phóng viên nói không rõ kết quả thế nào.



(BBC)

'Cung điện' nguy nga trên nóc tòa nhà 26 tầng

Một giáo sư Trung Quốc đang trở thành tâm điểm của dư luận, sau khi bỏ ra 6 năm để xây dựng một biệt thự cầu kỳ và nguy nga ngay trên nóc của một khu chung cư 26 tầng.

files-1-1376359776_500x0.jpg
Biệt thự của giáo sư Zhang là một quần thể đá và cây xanh nằm trên nóc tòa chung cư 26 tầng ở Bắc Kinh. Ảnh: EPA
Theo Telegraph, những hình ảnh về công trình kỳ lạ và bất hợp pháp lan truyền trên mạng từ hôm qua, sau bài viết của một tờ báo địa phương. Nó được những người sử dụng Internet gọi là "biệt thự treo Bắc Kinh".
Trong ảnh, biệt thự được bao quanh bằng một quần thể đá giả và cây xanh nổi lên trên nóc của một tòa chung cư thuộc khu đô thị Renji Shanzhuang. 
Giáo sư Zhang, chủ nhân của biệt thự trên, được cho là đã mua một căn penhouse rộng 100 mét vuông của tòa nhà vào năm 2007, trước khi bắt tay vào xây dựng công trình này và biến nó thành một khuôn viên rộng 1.000 mét vuông. 
Một người hàng xóm tên Yan kể rằng, việc thi công liên tục công trình này vừa gây rò rỉ nước xuống những căn hộ ở bên dưới, vừa gây ồn ào khiến bà rất bức xúc. 
Một người khác thì phàn nàn về những cuộc vui chơi vào đêm khuya của giáo sư Zhang. Tiếng hát hò từ biệt thự trên mái thường khiến người dân trong chung cư bị thức giấc. Giáo sư Zhang từng hứa hẹn sẽ lắp đặt lớp cách âm cho ngôi nhà hai tầng của ông này nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện.
files-1376359776_500x0.jpg
Cận cảnh biệt thư trên mái chung cư của giáo sư Zhang. Ảnh: gadailynews
Trò chuyện với Beijing Morning News, giáo sư Zhang tỏ ra bình thản trước những phàn nàn của hàng xóm, những người đã nhiều năm liền kêu gọi ông ngừng việc xây dựng biệt thự trên mái. 
"Vì tôi đã dám sống ở đó nên tôi không sợ những lời phàn nàn", ông Zhang nói. "Những người nổi tiếng đến nhà tôi chơi và hát hò. Làm sao tôi có thể dừng họ lại được?".
Một quan chức quản lý đô thị cho hay, công trình bất hợp pháp trên tầng mái của giáo sư Zhang đã bị thanh tra trong tháng 7 và sẽ phải dỡ bỏ vì gây nguy hiểm cho toàn bộ tòa nhà. 
Truyền thông quốc gia cho biết ông Zhang "đã được chỉ dẫn để phá hủy công trình trái phép trên". Tuy nhiên, Global Times thừa nhận, giới chức địa phương vẫn đang bối rối tìm cách xử lý Zhang và cung điện trên mái nhà của ông.
Nhân Mã

Tuesday, August 13, 2013

New Zealand "cấm cửa" máy bay do Trung Quốc sản xuất

New Zealand "cấm cửa" máy bay do Trung Quốc sản xuất
Chính quyền New Zealand cuối tuần qua đã phát đi cảnh báo về chất lượng đối với mẫu máy bay MA-60 do Trung Quốc sản xuất, đồng thời khuyến cáo người dân nếu đi trên máy bay này thì “tự chịu rủi ro”.
Chiếc MA-60 tại Indonesia từng liên quan đến một vụ tai nạn.
Thông tin được hãng tin AFP đăng tải. Theo đó ngoài việc ra cảnh báo về mẫu máy bay sản xuất tại Trung Quốc, giới chức New Zealand cũng tạm ngừng một chương trình quảng bá du lịch sau khi đảo quốc Tonga quyết định mua một máy bay từng dính nhiều trục trặc của Trung Quốc.
Máy bay MA-60 do Trung Quốc sản xuất “đã khiến các chuyên gia hàng không có những quan ngại nghiêm trọng”, Bộ trưởng ngoại giao New Zealand Murray McCully khẳng định.

Chiếc máy bay này vừa được Trung Quốc bàn giao cho Tonga hồi tháng trước.

Một khuyến cáo về đi lại do chính phủ New Zealand đưa ra khẳng định, nếu ai quyết định bay trên máy bay Xian MA-60 “thì tự chịu rủi ro”. Và rằng chiếc máy bay này không được phép bay tại New Zealand, cũng như một số khu vực khác, trong đó có Cơ quan an toàn hàng không châu Âu.

“Trong điều kiện thiếu một quy trình cấp phép được quốc tế công nhận như Tonga, chính phủ có trách nhiệm phải thu hút sự chú ý của người dân về vấn đề này, và bản tư vấn du lịch Tonga của chúng tôi đã được cập nhật tương ứng”, ông McCully cho biết.

“Chính phủ New Zealand đã tạm dừng những hỗ trợ dành cho ngành du lịch Tonga và chúng tôi sẽ không chi tiền của người nộp thuế để thúc đẩy du lịch tại Tonga, cho đến khi chúng tôi được thỏa mãn về độ an toàn và đáng tin cậy của dịch vụ hàng không mới”, người đứng đầu Bộ ngoại giao New Zealand nhấn mạnh.

Mẫu máy bay nêu trên của Trung Quốc đã có liên quan đến nhiều vụ tai nạn, trong đó có 3 vụ trong vòng 2 tháng gần đây. Hai trong số này xảy ra tại Myanmar, vụ còn lại tại Indonesia.

Thanh Tùng
(Sóc Trăng post)

Thế giới lo lắng vì văn hóa kinh doanh của Trung Quốc.

Thế giới lo lắng vì văn hóa kinh doanh của Trung Quốc
Nếu chịu khó đọc báo, các bạn sẽ thấy doanh nghiệp và người lao động Trung Quốc đã tràn ngập châu Phi, Nam Mỹ, phần lớn các nước châu Á, thậm chí ngay tại nhiều trung tâm kinh tế ở Tây Âu và Hoa Kỳ. Một điều hiển nhiên là các doanh nghiệp Trung Quốc liên tục thắng thầu tại bất cứ cuộc đấu thầu quốc tế nào. Nguyên nhân cơ bản nhất là giá chào của Trung Quốc quá rẻ và Trung Quốc sẵn sàng hối lộ để thắng thầu trong khi doanh nghiệp các nước khác không thể làm thế được. Sang đến giai đoạn thực hiện thầu thì mới phát sinh hàng loạt vấn đề: Nhân quyền với người lao động, ứng xử với tài nguyên môi trường, chất lượng và tiến độ công trình...
Người VN ta biết rõ chuyện này vì nó quá phổ biến ở nước ta. Thậm chí trụ sở to đùng của nhiều cơ quan nhà nước, cả dân sự lẫn an ninh quốc phòng, cũng được ưu ái đưa cho bạn làm hộ trong khi doanh nghiệp Việt thiếu việc làm.
Báo chí nước ngoài đặt câu hỏi: Tại sao lần lượt nhiều chính quyền các nước Ả rập, Bắc Phi thân Mỹ, thân phương Tây lại lần lượt bị sụp đổ qua nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng trong mấy năm gần đây ? Rồi họ trả lời: Vì chính phủ các nước này đã để các doanh nghiệp Trung Quốc liên tục thắng thầu mọi dự án lớn trong khi các doanh nghiệp Âu - Mỹ bị cho ra rìa, làm cho đám lãnh đạo Âu - Mỹ tức giận, tìm cách lật đổ các chính quyền cũ, dựng lên chính quyền mới với nhiệm vụ đầu tiên là ngưng, tiến tới hủy bỏ mọi dự án có người TQ tham dự. 

---------------------

Tchad cho ngưng hoạt động một tập đoàn dầu lửa Trung Quốc

Địa điểm nhà máy lọc dầu của Trung Quốc tại Tchad, lúc đặt viên đá đầu tiên vào tháng 11/2008.
Địa điểm nhà máy lọc dầu của Trung Quốc tại Tchad, lúc đặt viên đá đầu tiên vào tháng 11/2008.
DR

Thụy My
Chính phủ Tchad hôm nay 13/08/2013 loan báo đã ngưng « tất cả mọi hoạt động » của chi nhánh tại Tchad của một tập đoàn dầu khí quốc doanh Trung Quốc vì đã « vi phạm hiển nhiên các tiêu chuẩn môi trường » trong việc khoan khai thác dầu thô tại miền nam nước này.
Bộ trưởng Dầu hỏa Tchad, ông Djérassem Le Bémadjiel nói với AFP : « Chúng tôi đã đến khu vực hoạt động của China National Petroleum Corporation International Chad (NNPCIC) tại Koudalwa (cách thủ đô Ndjamena khoảng 200 km). Chúng tôi nhận thấy công ty này đã ngang nhiên vi phạm các tiêu chuẩn môi trường ». Ông Le Bémadjiel thông báo cho ngưng hoạt động của công ty NNPCIC tại Tchad, nhưng không cho biết cụ thể trong thời gian bao lâu.

Vị Bộ trưởng tố cáo : « Không chỉ có việc họ không có thiết bị để làm sạch chỗ dầu thô bị đổ, mà họ còn cố ý đổ để giảm chi phí. Họ đào những đường hào khổng lồ và trút dầu thô vào những rãnh này mà không hề bảo vệ, sau đó họ gọi các công nhân người Tchad đến múc chỗ dầu ấy đi, mà không quan tâm đến việc bảo hộ cho công nhân ».
Đối với ông Le Bémadjiel, « thái độ của NNPCIC là không thể chấp nhận được. Toàn bộ giàn lãnh đạo của công ty này sẽ phải trả lời về hành động trên ».

Từ năm 2009, công ty NNPCIC bắt đầu các chiến dịch khoan khai thác dầu tại Koudalwa, và sở hữu một nhà máy lọc dầu tại Tchad.
Quốc gia châu Phi này bắt đầu khai thác các mỏ dầu của mình vào năm 2003. Theo các nguồn tin chính thức, lượng dầu khai thác năm 2011 khoảng 120.000 thùng dầu một ngày.
Thu nhập từ dầu lửa cho phép Tchad hiện đại hóa quân đội, có được hệ thống đường sá tốt hơn và xây dựng thêm nhiều công sở. Nhưng một số thành viên xã hội dân sự đòi hỏi chính quyền sử dụng một phần nguồn tiền trời cho này để cải thiện điều kiện sống của người dân.
Về phần Trung Quốc, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), Trung Quốc năm nay sẽ qua mặt Hoa Kỳ để trở thành quốc gia nhập khẩu dầu nhiều nhất thế giới.

http://www.pagewash.com////nph-index.cgi/000010A/uggc:/=2fjjj.ivrg.esv.se/punh-n/20130813-gpunq-pub-athat-ubng-qbat-zbg-gnc-qbna-qnh-yhn-gehat-dhbp

Tây Tạng và cái ách thực dân Trung Quốc


Tây Tạng và cái ách thực dân Trung Quốc 
Phạm Hy Sơn
Nhân loại, nhất là những dân tộc ở châu Phi, châu Mỹ tưởng chủ nghĩa đế quốc , thực dân đã tàn lụi vào quá khứ . Không ai ngờ nó vẫn hiển hiện tại những xứ nhỏ yếu bên cạnh Trung Quốc .
Vào thế kỷ 17, 18 các nước châu Âu nhờ sớm kỹ nghệ hóa đã đua nhau đi xâm lăng những nước lạc hậu trên thế giới để kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa và khai thác nguyên liệu đem về nước chế biến , nhưng sau khi Thế Chiến thứ II chấm dứt năm 1945 thì những nước bị đế quốc đô hộ đó dần dần tự giải thoát khỏi ách thực dân . Ngược lại các dân tộc Mông Cổ, Mãn Châu, Duy Ngô Nhĩ và nhất là Tây Tạng vẫn còn bị cái ách đô hộ của Trung Quốc cho đến nay .
Tây Tạng bị quân đội cộng sản Trung Quốc xâm lăng năm 1950, bị sát nhập thành phủ, huyện của Trung Quốc năm 1951, và cũng như 3 dân tộc kia hiện đang bị Trung Quốc áp dụng chính sách triệt để Hán hóa để xóa bỏ hẳn trên bản đồ thế giới .

Trung Quốc từ lâu đời có truyền thống xâm lăng những nước nhỏ yếu bên cạnh để bành trướng lãnh thổ và đồng hóa dân bản xứ thành người Hán . Ngày nay vì nạn nhân mãn trầm trọng với 1.300 triệu người, Trung Quốc càng cần đi xâm lăng các nước khác, nhất là những nước đất rộng ít dân như Tây Tạng, Mông Cổ . . . hầu di dân giải tỏa áp lực dân số . Do đó chỉ mới mấy chục năm nay mà người bản xứ của những nước này trở thành dân thiểu số trên chính quê hương của họ với 20% dân số, 80% còn lại là người Hán thực dân .


ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC TÂY TẠNG :

Tây Tạng là 1 quốc gia hiện diện lâu đời ở miền Trung Á, nói rõ hơn ở sườn phía bắc dãy núi Hymalias với độ cao trung bình trên 4.500m (núi Hoàng Liên Sơn cao nhất Việt Nam ở Lào Cai cao hơn 3.000m) nên người ta kêu Tây Tạng là nóc nhà thế giới . Diện tích Tây Tạng khoảng 2 triệu 500 ngàn km2 ( chiến hơn ¼ diện tích Trung Quốc hiện nay ) bao gồm các khu vực rộng lớn chính như Amdo, Kham và U-Tsang . Thủ đô là Lhassa .
Sau khi chiếm Tây Tạng năm 1950, Trung Quốc cắt vùng Amdo rộng lớn phía đông bắc thành những mảnh nhỏ để sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Tứ Xyên ; phần phía đông vùng Kham cũng bị cắt nhỏ như thế để sát nhập vào các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên , Thanh Hải . Khu gọi là tự trị Tây Tạng chỉ còn U-Tsang và tây Kham với diện tích hơn 1 triệu km2 .

Cách nay khoảng 5.000 năm, khi dân Hoa Hạ (Hán) có mặt ở khu vực tây bắc (sông) Hoàng Hà thì dân tộc Tây Tạng cũng đã định cư ở vùng Trung Á này rồi và từ từ phát triển về phía đông và đông nam tách ra thành các nước Nam Chiếu , Miến Điện và có lẽ cả Thái Lan . Nước Nam Chiếu rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ 8, đã từng đem quân đánh An Nam (VN bây giờ), Miến Điện và tranh hùng với nhà Đường Trung Quốc vào giữa thế kỷ này . Nam Chiếu sau đổi thành Đại Lý và bị người Tàu xâm chiếm rồi đồng hóa thành tỉnh Vân Nam hiện nay .

Dân tộc Tây Tạng có 1 nền văn hóa lâu đời và có nhiều nước từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa này như Népal , Boutan ,Sikkim . . . ở phía nam , phía bắc tới tận Mông Cổ và Trung Quốc ( phái Mật Tông) . Tây Tạng có ngôn ngữ riêng (tiếng Tạng Miến), chữ viết riêng, tôn giáo riêng với đạo Bôn xuất hiện nhiều thế kỷ trước khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang vào thế kỷ thứ 7 sau TL . Hiện nay đạo Bôn vẫn còn được 1 số người theo và đạo Phật với phái Mật Tông lan sang Trung Quốc và cả Việt Nam , Mông Cổ .
Ngay từ đầu thế kỷ thứ 7 sau TL. Tây Tạng đã là 1 quốc gia hùng mạnh, đã từng phát triển tới Bangladest, Nam Chiếu ở phía đông, nam ; phía bắc và đông bắc tới Mông Cổ, Trung Quốc.
Liên tiếp 2 năm 635, 636 vua Songsten Gampo (604-650 sau TL ) đem quân đánh Trung Quốc buộc vua nhà Đường lúc ấy phải gả công chúa Wencheng (Văn Thánh) cho vua Tây Tạng để giảng hòa . Tuy vậy , sự tranh hùng giữa 2 nước xẩy ra liên miên suốt 3 thế kỷ . Năm 763 vua Trisong Detsen (756-804) tiến quân tới Trường An , kinh đô nhà Đường, làm vua Đường Thái Tông phải chạy về Lạc Dương . Vua Tây Tạng lập 1 ông vua bù nhìn ở Trường An để cai trị . Đến năm 821, dưới triều vua Ralphachen (815-838) hai nước mới có hòa ước ký tại Lhassa, thủ đô Tây Tạng . Bản hòa ước này được khắc bằng cả chữ Tây Tạng và chữ Hán vào 1 cột đá dựng bên ngoài chùa Jokhang ở Lhassa . Cũng trong thời kỳ này, biên cương 2 nước Tạng, Hoa được vạch rõ, được đánh dấu bằng những trụ đá hay khắc vào núi đá như ở biên giới giữa 2 nước vùng Vân Nam .
Tây Tạng cường thịnh được khoảng 500 năm thì bị suy yếu do nạn chia rẽ, tranh chấp quyền hành . Do đó , đầu thế kỷ thứ 13 nước này bị quân Mông Cổ chiếm để mở 1 con đường tiến quân chinh phục Trung Quốc , sau đó Trung Quốc bị đế quốc Nguyên Mông Cổ cai trị gần 100 năm . Khi nhà Nguyên Mông Cổ sụp đổ, Tây Tạng cùng với Trung Hoa và tất cả những nước khác lấy lại độc lập, nhưng đến thế kỷ thứ 16 Tây Tạng lại bị Mông Cổ đô hộ lần nữa . Đầu thế kỷ thứ 18, khi đế quốc Mãn Châu củng cố xong sự cai trị ở Trung Quốc thì tiến quân đánh chiếm Tây Tạng, cắt miền đất phía đông Amdo sát nhập vào Trung Quốc với cái tên Koko Nor (Hồ Nước Xanh). Vùng này bị đổi thành tỉnh Thanh Hải năm 1929 dưới chính quyền Quốc Dân Đảng do Tôn Dật Tiên sáng lập .
Khi đế quốc Mãn châu (nhà Đại Thanh) bị lật đổ ở Trung Hoa năm 1911, nhân cơ hội này Tây Tạng tuyên bố độc lập . Nền độc lập này kéo dài được 39 năm thì bị Mao trạch Đông đem quân xâm chiếm .

Trung Quốc thường viện dẫn rằng trước đây Tây Tạng thuộc quyền đô hộ của nhà Nguyên (đế quốc Mông Cổ) và nhà Thanh (đế quốc Mãn Châu) nên nay họ có quyền tiếp tục cai trị . Lý luận như thế chẳng khác gì nói rằng cái nhà này ông tôi chiếm của hàng xóm, rồi đến bố tôi tiếp tục chiếm nên nay cái nhà này thuộc về tôi . Lập luận và lối chứng minh ấy thật lạ lùng vì Tây Tạng cũng như Trung Quốc xưa kia cùng bị Mông Cổ và Mãn Châu xâm lăng, đều là nạn nhân của 2 đế quốc đó nên nếu lấy lịch sử để chứng minh chủ quyền như thế thì cái quyền ấy là quyền của người Mông Cổ và người Mãn Châu .

Họ có quyền đòi chủ quyền không những ở Tây Tạng mà ở cả Trung Quốc . Tương tự, những nước trong “ Bát Quốc Liên Quân “ Nga, Nhật, Đức . . . có quyền đòi hỏi chủ quyền trên lãnh thổ Trung Quốc hiện nay, ít nhất là Nhật có quyền đòi hỏi chủ quyền toàn bộ quần đảo Đài Loan vì quần đảo này đã từng bị sát nhập vào Nhật cho đến hết Thế Chiến thứ II .

Đế quốc Mãn Thanh của người Mãn Châu, không phải của người Trung quốc . Hiến Pháp Đại Cương năm 1908 của đế quốc này gồm 15 điều , điều I ghi rất rõ ràng :
Điều I : “ Hoàng Đế Đại Thanh thống trị đế quốc Đại Thanh, nối tiếp nhau đến vạn đời .”
Điều II : “Hoàng đế tôn nghiêm như thần, thánh, bất khả xâm phạm . “ . . . . .

Triều dình của đế quốc Đại Thanh khi ấy thì ông vua Quang Tự là người Mãn, 12 Thượng Thư thì 8 là người Mãn ( trong đó 5 người là hoàng tộc Mãn ), chỉ có 4 là người Tàu ( Nguyễn hiến Lê, Sử Trung Quốc , Chương 8) .

TÂY TẠNG DƯỚI ÁCH THỰC DÂN TRUNG QUỐC :

Sau khi chiếm xong Tây Tạng, Mao mở đầu kế hoạch nuốt trọn Tây Tạng bằng cách hủy diệt nền tảng cấu trúc về tôn giáo và đạo đức của xã hội Tây Tạng . Đó là chiến dịch đấu tố Cải Cách Ruộng Đất . Bên ngoài là tịch thu ruộng đất của tu viện, chùa chiền và địa chủ, những người giàu có để chia cho dân nghèo xóa bất công xã hội, nhưng bên trong hàm ẩn mục đích tiêu diệt tiềm năng chống đối của người Tây Tạng vì Đạo Phật và ảnh hưởng của giới tu sĩ bao trùm hầu hết mọi sinh hoạt của Tây Tạng từ đạo đức, chính trị, văn hóa , giáo dục đến phong tục, tập quán nên diệt được Phật giáo là diệt được Tây Tạng ( khoảng từ 20 đến 25% người trưởng thành Tây Tạng tu trong hàng ngàn tu viện và chùa chiền trên khắp nước (*). Vì vậy quân đội Trung Quốc tịch thu hết ruộng đất của những cơ sở tôn giáo và đuổi những người tu hành ra khỏi tu viện, chùa chiền bắt phải hoàn tục . Ai không nghe thì bị đánh đập, bỏ tù, những người chống đối thì bị giết ngay tại chỗ hay bắt đi mất tích . Hai chữ “ mất tích” ở Tây Tạng từ khi bị Trung Quốc xâm lăng có nghĩa là bị đem đi thủ tiêu , không bao giờ trở lại .

Quân đội Trung Quốc chỉ định những đối tượng của cuộc Cải Cách Ruộng Đất bắt dân chúng phải đấu tố, bắn giết . Đó là những vị sư sãi, những thân hào nhân sĩ, những người giàu có tại địa phương . Toàn bộ tài sản liên quan hay thuộc về họ bị tịch thu; bạn bè, thân nhân bị canh chừng và bị cô lập bằng cách gạt ra bên ngoài tất cả mọi sinh hoạt xã hội . Dân chúng , giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa xóm làng phải tố cáo lẫn nhau .

Vì bị cai trị khắc nghiệt như vậy nên chỉ 6 năm sau, năm 1956, người Tây Tạng bùng lên phản kháng . Lúc đầu là ở Amdo và đông Kham, những vùng bị cắt nhỏ sát nhập vào các tỉnh Cam Túc- Thanh Hải- Tứ Xuyên- Vân Nam , sau lan cả sang tây Kham và U-Tsang . Cuộc nổi loạn bị trấn áp thật khủng khiếp, chỉ trong 3 năm (1956 – 1959) hơn 20.000 người tham dự bị giết chết, dã nam nhất là hơn 200.000 người bị bắt đem đi thủ tiêu . Đó là cha mẹ, vợ con,anh em, xóm làng của những người chống đối . Cuộc tàn sát này giống với cuộc tàn sát diệt chủng người Do Thái mà Hitler ra lệnh cho áp dụng ở châu Âu hồi Thế Chiến thứ 2 .

Từ đó tới nay một mặt Trung Quốc xiết chặt sự cai trị Tây Tạng và mặt khác ồ ạt di dân cũng như đem hàng triệu tội phạm người Hán tới nhốt rồi cấp phát ruộng đất bắt định cư tại đó sau khi mãn tù (**) .
Dân tộc Tây Tạng đã được hun đúc bằng truyền thống văn hóa của ngàn xưa và từng có một lịch sử oai hùng không dễ gì chịu khuất phục trước bạo lực và chính sách Hán hóa của Trung Quốc nên dân chúng luôn luôn có những hành động phản kháng dưới mọi hình thức, từ nhỏ tới lớn . Ngày 10 tháng 3 năm 2008 dân chúng thủ phủ Lhassa nổi lên biểu tình chống đối bị công an và Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc đàn áp giết chết hơn 300 người và mấy trăm người , trong đó có nhiều nhà sư, bị bắt đem đi mất tích không bao giờ trở lại . Từ cuộc nổi lên ở thủ phủ Lhassa này, sự cai trị tàn bạo của Trung quốc càng ngày càng tàn bạo thêm . Bí Thư Tây Tạng ( người Hán ) Zang Qingli công khai tuyên bố : “ Những ai cần bắt sẽ bị bắt, cần bỏ tù sẽ bị bỏ tù . Những ai cần giết sẽ bị giết .”

Báo Le Monde ra ngày 14-12-2012 viết : “ Sau vụ nổi dậy năm 2008, trấn áp là biện pháp duy nhất .” (Web site RFI ngày 14-12-2012) . Còn báo Libération ngày 12-12-2012 đăng 1 bài phóng sự dài về Tây Tạng của Phillippe Grangereau có ghi lời nữ văn sĩ Tây Tạng, bà Tsering Woeser, mô tả : hiện nay Tây Tạng không khác gì 1 nhà tù, nhất là tại thủ phủ Lhassa . Công an, cảnh sát khám người trên khắp các nẻo đường, kẻ cả trẻ em . Vào chùa phải đưa thẻ căn cước vào máy và khi vào bên trong lại bị khám xét nữa. Chỉ trên 1 đoạn đường 500m bà đi qua có 21 chốt gác của cảnh sát và gặp 3 đội tuần tra .

Ở Đồng Nhân không chỉ có công an, quân đội giữ an ninh, trật tự mà cả các cán bộ, công nhân viên cũng phải dành ½ thời gian canh chừng dân chúng.

Tất cả mọi người Tây Tạng ra đường dù ngày hay đêm đều phải mang theo 5 thứ giấy tờ tùy thân và luôn luôn bị khám xét trong khi người Hán ở Tây Tạng thì không bị sách nhiễu gì cả .

Cũng trong bài phóng sự này Phillippe Grangereau đưa ra nhận xét :” Họ (Trung Quốc) muốn đồng hóa, muốn triệt bỏ ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, lịch sử, nhân cách của người Tây Tạng .”
Nhận xét ấy rất chính xác vì chỉ riêng trong thời gian Mao trạch Đông phát động Cách Mạng Văn Hóa vào những năm 1960 có hơn 6.000 tu viện và chùa chiền bị tiêu hủy, những cơ sở chưa bị phá thì bị canh giữ, các ni sư phải học tập chủ nghĩa cộng sản ; những nhà tu nào chống đối thì bị bắt, bị giết hay đem đi biệt tăm; học sinh và trẻ em bị cấm đến chùa ; vinh viên, học sinh phải học những môn học viết toàn bằng chữ Hán; phong tục tập quán, lối sống của người Tây Tạng bị chê bai, lăng mạ .

Chính sách Hán hóa khốc liệt ấy không khác gì chính sách mà quân nhà Minh áp dụng khi xâm lăng Việt Nam đầu thế kỷ thứ 15 . Sắc chỉ của Minh thành Tổ ngày 21-8-1406 ra lệnh bất cứ sách vở, văn, thơ, vết tích văn hóa nào của Việt Nam cũng phải thu, phải đốt, phải đục cho hết .
Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần trọng Kim ghi : “Đến tháng 8 năm Giáp Ngọ (1414 ) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu đem theo những đàn bà, con gái về rất nhiều . Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu . Lập đền miếu bắt người mình phải cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt như người Tàu cả . Còn cái gì là di tích của nước mình thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch .”
Sử gia Trần trọng Kim ghi tiếp rằng Hoàng Phúc bắt các châu, huyện phải lập văn miếu thờ Khổng Tử và lập các bàn thờ trong nhà để thờ các thần sơn (núi), xuyên (sông), phong (gió), vân (mây) . . . . Bắt đàn ông, con trai không được cắt tóc ngắn; đàn bà, con gái thì phải mặc áo ngắn quần dài theo cách ăn mặc của người Tàu ( đàn bà Việt Nam thì mặc áo dài, váy đen – PH Sơn chú thích).
(Trần trọng Kim, Việt Nam Sử Lược Q.I trang 211&212, Bộ Giáo Dục xb. năm 1971).

Chúng ta đọc lại giai đoạn lịch sử đen tối của Việt Nam để cảm thông nỗi nguy nan của dân tộc Tây Tạng dưới ách cai trị của Trung Quốc hiện nay .
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo như thế, toàn dânTây Tạng đang kiên trì tranh đấu cho sự sống còn của dân tộc bằng sự hy sinh vô bờ bến, hy sinh bằng chính bản thân họ biến thành những ngọn đuốc sống đang bừng cháy trên vùng trời Hymalias .
Nhân loại đã nhận thấy sự thống khổ của họ, Liên Hiệp Quốc, Cộng Đồng Âu Châu, các quốc gia, các cơ quan bảo vệ nhân quyền . . . liên tục lên tiếng mạnh mẽ phản đối chế độ thực dân Trung Quốc tại Tây Tạng .

Trước công luận và sự lên án của thế giới, liệu Trung Quốc có thể duy trì mãi mãi chế độ thực dân ở Tây Tạng, Nội Mông Cổ, Tân Cương hay sẽ sớm nở tối tàn như 3 đế quốc muộn Đức, Nhật, Ý năm 1945 ?
Phạm hy Sơn
( 18 – 03 – 2013 ) 

GHI CHÚ :

-(*) Dù sống đời sống tị nạn tại Ấn Độ, hiện trong 200 ngàn người Tây Tạng ở Dharamsala có 20 ngàn tăng ni tu trong 200 tu viện hay trong các ngôi chùa – như vậy là 10% dân số đi tu .

- (**) Trong cuộc đàm luận với 1 nhà báo Ấn Độ hồi tháng 4-2012, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiết lộ hiện nay ở thủ đô Lhassa người Hán chiếm 2/3 sân số và nắm hết các quyền lợi của người Tây Tạng . Xin xem đầy đủ trên Web site thuvienhoasen.org /phần Phật Giáo Thế Giới .

nguồn : khoahocnet.com

Khủng Hoảng Trung Quốc

Khủng Hoảng Trung Quốc
Tác giả: Hùng Tâm/NV
Vì sao bị khủng hoảng và tại sao thiên hạ không thấy?
Sau nhiều tháng phân vân, hầu hết giới bình luận kinh tế đều đã có chung một nhận định. Rằng kinh tế Trung Quốc sẽ đối mặt với một vụ khủng hoảng tài chánh tương tự như Nhật Bản năm 1989-90, Nam Hàn năm 1997-98, hay Hoa Kỳ năm 2008-09. Và sau đó sẽ là một vụ khủng hoảng kinh tế kéo dài trong nhiều năm, như Nhật Bản đã từng gặp từ 1991 đến nay. 
Với nhiều người theo dõi tình hình kinh tế và chính trị Trung Quốc từ lâu – phải hơn chục năm – chuyện khủng hoảng không là bất ngờ mà còn được tiên báo, nhưng ít được chú ý vì trái với nhận định của “dòng chính” (mainstream). Nhiều quỹ đầu tư, giáo sư kinh tế hay chuyên gia học giả không ngớt lời ngợi ca phép lạ kinh tế của Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng trên 10% một năm trong mấy chục năm liền và đã vượt qua sản lượng của Ðức, rồi Nhật. Từ đó, người ta dự báo Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ để có nền kinh tế đứng đầu thế giới trong thập niên này.

Bây giờ thì mọi chuyện đều đảo ngược. Theo sau các quỹ đầu tư bị lỗ vốn khi quá tin tưởng vào triển vọng kinh tế Trung Quốc, nhiều nhà bình luận đã bắt đầu xét lại… Tác giả xin nêu câu hỏi là “Tại sao ít ai nhìn ra chuyện này?”

MEA CULPA 2008-2012


Muốn có giải đáp, chúng ta hãy nhìn vào chuyện gần rồi mới tìm hiểu về chuyện xa.
Cuối năm 2007, kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm (recession) là khi đà tăng trưởng giảm sút trong hai quý liền. Nạn suy trầm xảy ra sau giai đoạn sung mãn của thị trường gia cư từ quãng 2002 đến 2006. Ðầu năm 2008, khủng hoảng tài chánh đã từ Âu Châu lan về Hoa Kỳ và bùng nổ với sự sụp đổ của các tổ hợp đầu tư Bear Sterns rồi Lehman Brothers, tập đoàn bảo hiểm AIG, v.v…

Từ đó, kinh tế thế giới bị “Tổng suy trầm” (Global Recession) trong hai năm liền.

Ðấy là lúc các chuyên gia, học giả, báo giới và chính khách nói đến một vụ Tổng khủng hoảng của Tư bản Chủ nghĩa, chẳng khác gì thời 1929-1933, và sự suy thoái (depression) của Hoa Kỳ sau khi đã chi tiêu và bành trướng quá mạnh. Nhận định ấy sai, nhưng không thuộc phạm trù về bài này.

Khi đó, truyền thông báo chí hùa theo sự lạc quan hồ hởi của các quỹ đầu tư mà nói về chương trình kích thích kinh tế vĩ đại của Trung Quốc, khởi sự từ tháng 11 năm 2008 và tiếp tục cho đến năm 2010 là khi kinh tế xứ này vượt qua Nhật Bản. Theo phản ứng bày đàn, như trong một vụ trứng cút tại Việt Nam, nhận định chung của nhiều người là “may quá còn có Trung Quốc!”
Nhờ ngân khoản kích cầu khổng lồ để bù vào sự suy trầm chung của Hoa Kỳ rồi Âu Châu, Trung Quốc vẫn duy trì được sức tăng trưởng cao. Chẳng những không hề sa sút mà còn có thể là một đầu máy cho kinh tế thế giới. Giai đoạn lạc quan ấy kéo dài cho đến đầu năm 2012, khi Trung Quốc lại chuẩn bị Ðại hội đảng Khóa 18 vào cuối năm với nhiều biện pháp kích thích nữa. Ðấy là lúc người ta nói đến trào lưu tất yếu là “Tàu sẽ vượt Mỹ”.

Nhiều người còn đề cao mô hình phát triển của Trung Quốc như giải pháp có giá trị hơn, nhờ sự can thiệp sáng suốt của một nhà nước anh minh, cũng tương tự như ông Obama của Mỹ! Ðến cuối năm 2012 thì người ta mới bàng hoàng nhận ra một sự thật khác là cổ phiếu Trung Quốc rớt như cục gạch và núi nợ ngân hàng cao chất đống bắt đầu rung chuyển….

Qua năm 2013 thì nhạc lắng mây chìm! Nhiều quỹ đầu tư thành thật khai báo với thân chủ rằng “lỗi tại tôi mọi đàng,” mea maxima culpa.

Sai ở đâu?


Ðây là những lý do đầu tiên và dễ thấy nhất của sự sai lầm vĩ đại của giai đoạn 2008-2012.Trên thế giới, người ta có 1) nền kinh tế đã phát triển (của khối công nghiệp hóa là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản, cộng với một số quốc gia tiên tiến như Canada, Úc, Tân Tây Lan) và 2) các nền kinh tế đang phát triển. Trong nhóm đang phát triển hay đang lên (emerging), có Trung Quốc.

Quy luật vận hành của hai khối kinh tế đã và đang phát triển có khác biệt chứ không hoàn toàn giống nhau. Một khác biệt nữa là các nước công nghiệp hóa đều theo chế độ dân chủ và công khai hóa mọi vấn đề lẫn tranh luận về giải pháp. Họ tạo ra một hình ảnh hỗn loạn, bất nhất và thiếu ổn định. Nghĩa là sự bất trắc của chủ nghĩa tư bản!

Trong khối đang phát triển lại còn có hai loại quốc gia. Nhiều nước có tài nguyên thiên nhiên như nguyên nhiên vật liệu và nhiều nước có dân số đông đảo như nguồn lực chính của phát triển, là trường hợp Trung Quốc. Tuy nhiên, nét tương đồng của khối này là thông tin thiếu minh bạch, thị trường thăng giáng thất thường, quản trị kém về kinh doanh và quản lý kém về kinh tế. Vì vậy họ mới là “đang phát triển.”

Người ta đã chủ quan nhìn vào quy luật vận hành của các nước đã phát triển mà đánh giá các nền đang phát triển và vì vậy nhận định sai về những rủi ro khi đầu tư.

Các nước đã phát triển đều tiến lên trình độ trưởng thành với mức tăng trưởng thấp, nghĩa là doanh lợi đầu tư cũng thấp hơn các thị trường mới nổi, là nơi có thể kiếm lời rất nhanh và nhiều, mà cũng bị rủi ro lớn. Người ta đánh giá sai những rủi ro tại Trung Quốc, nên mới hồ hởi sảng.

Các quỹ đầu tư vào thị trường Hoa lục, hay “chuyên gia về Trung Quốc” còn tác động vào dư luận qua truyền thông báo chí để chỉ nhấn mạnh đến phần tích cực của Trung Quốc và càng làm dư luận nhìn sai sự thật.

Chuyện sai lầm này còn dễ xảy ra khi công chúng suy đoán rằng tương lai là một nối tiếp hay phóng dội của quá khứ. Vì kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng 10% một năm so với 2-3% – hay còn thấp hơn – của khối công nghiệp hóa, tương lai sẽ là một sự vượt bậc. Làm ăn tại các nước đã phát triển mà lời được 5% một năm thì khó, chứ tại Trung Quốc thì có thể lời gấp ba.

Hai sai lầm ấy – nhìn sai quy luật bất trắc của các nước đang phát triển và cả tin vào kết quả đã qua để dự báo tương lai – là lý do phổ biến nhất.

Lý do thứ ba thuộc một lãnh vực chuyên môn hơn. Kinh tế các nước đều phải có khả năng phát triển bình hòa tự nhiên chứ không thể mãi mãi trông cậy vào sự kích thích của nhà nước. Biện pháp kích thích là bất thường và hãn hữu khi sản xuất sút giảm, và phải chấm dứt để khỏi là liều thuốc đổ bệnh. Một thí dụ là kinh tế Hoa Kỳ được kích thích với ba đợt QE, là điều bất thường.

Khi tình hình đã khả quan hơn thì việc bơm tiền phải giảm dần và lượng tiền bơm ra sẽ phải được hút về. Tháng Sáu vừa qua, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ gọi việc điều chỉnh này là “taper,” vuốt lại biện pháp kích thích. Trong mấy ngày qua, khi giới chức ngân hàng dự trữ tại Dallas, Chicago rồi St. Louis, Cleveland nhận định là tháng Chín này thì có thể hãm đà bơm tiền, các thị trường cổ phiếu đều rớt giá vì sợ mất cơ hội kiếm lời. (Bài “Kinh tế cũng là Chính trị” của tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa có giải thích chuyện đó trên cột báo này vào Thứ Ba vừa qua).

Tại Trung Quốc, biện pháp kích thích bằng đầu tư và tín dụng của nhà nước còn cao gấp bội nếu so với Hoa Kỳ và khi khối tín dụng ấy vượt quá 220% Tổng Sản Lượng GDP trong có mấy năm thì người ta phải thấy là có sự gì đó rất bất thường. Vài con số sau đây có thể cho thấy sự bất thường đó:

Kinh tế Hoa Kỳ có sản lượng cỡ 16 ngàn tỷ đô la, biện pháp kích thích kiểu QE từ 2008 đến nay lên tới khoảng hơn hai ngàn 400 tỷ, đang được coi là quá lớn nên phải “vuốt lại.” Kinh tế Trung Quốc có sản lượng chừng tám ngàn tỷ mà lại được kích thích bằng tín dụng đến 23 ngàn tỷ đô la thì sẽ là liều thuốc đổ bệnh.

Nhưng vấn đề không chỉ là những nhận định sai lầm trong giai đoạn ngắn hạn từ sau vụ Tổng suy trầm. Nền kinh tế Trung Quốc có nhiều nhược điểm sâu xa hơn. Cho nên sau một vụ khủng hoảng tài chánh vì bơm tiền quá nhiều thì sẽ còn bị một vụ khủng hoảng kinh tế.

Chúng tôi xin liếc qua chuyện đó trong cơ cấu kinh tế Trung Quốc.

Nhược điểm căn bản và sâu xa


Sau khi Ðặng Tiểu Bình tiến hành cải cách từ đầu năm 2009, Trung Quốc chỉ áp dụng chiến lược phát triển của Nhật Bản, lấy đầu tư và xuất cảng làm lực đẩy. Kết quả ngoạn mục mà không là phép lạ là lực lượng lao động đã được giải phóng.Mấy trăm triệu dân được phép làm ăn mà không bị trưng thu hay cấm đoán như dưới thời Mao Trạch Ðông.

Nhưng kết quả cứ gọi là ngoạn mục ấy cũng là những thống kê không đáng tin, cao hơn thực tế, và lại che giấu những phí tổn phi kinh tế hay vô hình vì khó đếm: sự hủy hoại môi sinh. Giải quyết bài toán môi trường này sẽ là một nan đề của tình trạng “tăng trưởng thiếu phẩm chất.” Trung Quốc sẽ mất nhiều thế hệ cho bài toán này.

Hiện tượng tăng trưởng thiếu phẩm chất còn có một tai họa cụ thể và dễ thấy hơn: sự lãng phí trong đầu tư.

Nhiều dự án hay kế hoạch có giá trị kinh tế rất thấp vẫn cuốn hút tài nguyên của nhà nước, gây vấn đề cho môi sinh và thổi lên bong bóng đầu cơ. Chúng được duy trì vì đem lại lợi lộc cho các đảng viên cán bộ và tay chân thân tộc. Nghĩa là Trung Quốc đầu tư rất nhiều với kết quả rất thấp và gây lãng phí rất cao mà nhà nước vẫn cứ bơm tiền kích thích nên sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chánh vì doanh nghiệp phá sản và ngân hàng vỡ nợ.

Một nhược điểm khác còn sâu xa hơn nữa, đó là địa dư hình thể cực kỳ bất lợi của Trung Quốc.

Khu vực duyên hải là nơi dễ sống và tạo lực đẩy cho xuất cảng nên thu hút đầu tư rất mạnh vì tương đối có hiệu năng đầu tư cao hơn. Khu vực nội địa, nơi sinh sống của 900 triệu người trên hai phần ba diện tích toàn quốc, mới là vùng lạc hậu.

Hiệu năng đầu tư ở nơi đây quá thấp và ít được chú ý nên đào sâu sự dị biệt và bất công. Chính quyền trung ương tại Bắc Kinh có thấy vấn đề và đã nhiều lần tìm cách điều chỉnh kể từ hai chục năm nay mà chưa thành công. Một trong nhiều nguyên do là sự cưỡng chống hay cản trở của các đảng bộ địa phương.

Trung ương không mạnh như người ta thường nghĩ và hệ thống chính trị Trung Quốc không khắc phục được bài toán này của thiên nhiên và địa dư hình thể.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng thiếu rất nhiều tài nguyên. Loại chiến lược là năng lượng hay cả thực phẩm thì vẫn phải nhập cảng. Loại sinh tử vì không có thì chết, là nước ngọt, lại còn khan hiếm hơn. Lãnh đạo xứ này đã lạm thác rặng Hy Mã Lạp Sơn và thượng nguồn của các dòng sông lớn để tìm ra nước mà không xong. Họ đã lấy nước sông Trường giang (Dương Tử) để bổ sung cho Hoàng Hà và gây ô nhiễm nặng mà vẫn thiếu nước, trong khi 90% mạch nước ngọt đều bị nhiễm độc.

Sức mạnh sau cùng là dân số rất đông thì cũng bắt đầu có vấn đề sau ba chục năm kế hoạch hóa gia đình theo kiểu “mỗi hộ một con.” Dân số Trung Quốc hết tăng và sẽ giảm từ năm 2026 và tỷ lệ cao niên đang thành gánh nặng mà thành phần đang ở tuổi lao động sẽ phải cưu mang. Tức là Trung Quốc cũng bị hiện tượng lão hóa và không thể tăng trưởng mạnh như trước.

Sau cùng, khi nhược điểm của chiến lược tăng trưởng bằng đầu tư và xuất cảng đã tỏ lộ, lãnh đạo của họ phải tìm cách cân bằng lại lực đẩy, là nâng cao khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa.

Ðấy là trọng tâm của kế hoạch cải cách và chuyển hướng. Nhưng chưa chắc là họ sẽ thành công vì những nhược điểm tích lũy vừa nói ở trên, kể cả sự cản trở của các nhóm lợi ích ngay trên thượng tầng. Nếu như có thành công thì trong 10 năm tới, đà tăng trưởng sẽ sút giảm mạnh, ở dưới mức 5% một năm và có thể còn thấp hơn. Rủi ro xã hội và chính trị của mức tăng trưởng thấp có thể đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Kết luận ở đây là gì?


Trung Quốc sẽ phải chuyển hướng và cải cách theo quy luật tự do hơn của tư bản chủ nghĩa thì mới thoát hiểm về kinh tế. Ðấy là chủ trương của thế hệ lãnh đạo mới. Nhưng khi ấy, đảng sẽ gặp mâu thuẫn về chính trị hay tư tưởng “Xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Quốc” của một đảng Cộng sản có còn giá trị gì không? Ðây là câu hỏi cho học giả hàn lâm! Một cách lạc quan thì thế giới có cả chục quốc gia đông dân khả dĩ bù đắp vào giai đoạn sa sút của Trung Quốc nên sẽ thu hút đầu tư và tìm ra cơ hội mới. 

Nhưng trong số này KHÔNG có Việt Nam vì lãnh đạo Hà Nội học đúng bài bản của Trung Quốc nên kinh tế đang bị khủng hoảng.

Và khi Trung Quốc có loạn, hoặc nếu Trung Quốc có loạn, Việt Nam sẽ bị hậu quả đầu tiên.

Monday, August 12, 2013

Đảng CS Trung quốc sẽ Sụp đổ vào Năm 2016

Đọc cho vui. Không dễ khi đánh vào nền kinh tế khổng lồ và có nguồn ngoại tệ dự trữ cũng rất khổng lồ như Trung Quốc. Nếu không tính toán cẩn thận và không đủ tiềm lực, chính giới đầu tư quốc tế sẽ là người thua thiệt. Không những thế, khi Trung Quốc tung ngoại tệ (USD, trái phiếu chính phủ Mỹ...) ra cứu nguy thì cuộc đại khủng hoảng đồng đô la sẽ bùng nổ, kéo theo tổng khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì chính các cường quốc hàng đầu cũng rơi vào một cuộc tổng khủng hoảng kinh tế xã hội mới, trong khi chính họ vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay bắt đầu từ năm 2008.
Truyền thông Hồng Kông:
Đảng CS Trung quốc sẽ Sụp đổ vào Năm 2016
Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ qua ba giai đoạn, trong ba năm tới, và triều đại của nó sẽ chấm dứt vào năm 2016, theo Hồng Kông Frontline, một tạp chí chuyên mục về chính trị Trung Quốc.
Theo tạp chí Frontline, sụp đổ đầu tiên sẽ là nền kinh tế của Trung Quốc, vào năm 2014, và tiếp theo trong năm 2015, “cơ cấu chính trị” của Đảng sẽ bị phá hủy, và trong năm 2016, toàn xã hội sẽ sụp đổ, bài báo nói, trích dẫn các tiền lệ lịch sử. Với một kích hoạt đủ lớn, sự sụp đổ có thể đến sớm hơn, theo Frontline.

Mặt trời mọc trên chân trời Bắc Kinh sáng sớm ngày 06 tháng 11, 2012. Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ trong ba giai đoạn trong ba năm tới và triều đại của nó sẽ chấm dứt vào năm 2016, theo Hồng Kông tạp chí Frontline. (Ed Jones / AFP / Getty Images)Các nhà kinh tế đang nhìn thấy một sự đảo ngược trong dòng chuyển lưu vốn toàn cầu—tiền đang chuyển ra khỏi Trung Quốc, có thể gây ra biến động tài chính, Frontline nói.
Trong tất cả các mối đe dọa, ba tai họa nguy hiểm nhất là những bất động sản bong bóng, ngân hàng ngầm, và những món nợ chính quyền địa phương, do ở sự phổ biến và quy mô rộng lớn của nó sẽ như thế nào, tiến sĩ Frank Tian Xie, một giáo sư đại học kinh doanh tại University of South Carolina Aiken.



Trung Quốc sẽ chứng kiến sự tăng trưởng đầu tư tiêu cực trong năm tới và tiêm thêm tiền vào hệ thống sẽ không cải thiện tình hình nhưng vẫn rất cần thiết cho việc duy trì chuỗi nợ địa phương, theo báo cáo.

Theo bài báo, cuộc khủng hoảng kinh tế Trung Quốc bắt nguồn từ các vấn đề chính trị sẽ thể hiện rõ ràng trong một sự sụp đổ vào năm 2015. Nhiều nhóm quyền lợi phức tạp ở Trung Quốc không quan tâm đến số phận của Đảng hoặc đất nước, và chỉ tập trung vào việc tích lũy của cải, Frontline nói.

Theo báo cáo của Hồng Kông, các nhóm quyền lợi đang sẵn sàng chứng kiến sự kết thúc của Đảng Cộng sản Trung Quốc hơn là chạy theo những cải cách được đề xuất bởi Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo hàng đầu khác hiện nay, bởi vì họ đã chuẩn bị chiến lược rút lui của mình.

Như một phương sách cuối cùng để tự cứu mình, Đảng có thể sử dụng một công ty đa quốc gia để rót tiền trở lại Trung Quốc và duy trì đồng nhân dân tệ (yuan) của Trung Quốc trong khi chấm dứt sử dụng ngoại tệ tiền tiết kiệm nước ngoài và trái phiếu của Mỹ, theo Tạp chí Frontline suy đoán trong một số báo ra tháng Sáu.
Đề tài về một sự sụp đổ của Đảng đã được phổ biến trong năm qua, với một cuốn tiểu thuyết về ngày tận thế lấy Trung Quốc làm trọng điểm, xuất bản vào tháng Giêng, tựa đề “2014: Cuộc Sụp đổ Lớn” trở thành một trong những sách bán chạy nhất trong một cửa hàng Hồng Kông bán sách bị cấm.
(Đại Kỷ Nguyên)

Đài TQ nói về 'nhập khẩu' phụ nữ Việt

Đài TQ nói về 'nhập khẩu' phụ nữ Việt

Chi phí đám cưới ở Việt Nam được cho là rẻ hơn nhiều so với Trung Quốc
Kênh truyền hình tiếng Anh ở Trung Quốc, BON, vừa có phóng sự về thị trường "nhập khẩu" cô dâu Việt Nam trong mục Góc người tiêu dùng.

Cái giá để cưới một cô dâu Việt Nam là rẻ mạt đối với đàn ông Trung Quốc so với cưới một cô dâu cùng quốc tịch, kênh này nhận định.
Phóng sự của Đài BON, tức Blue Ocean Network, cũng cho rằng phụ nữ Việt giúp đàn ông Trung Quốc tìm lại giá trị của bản thân.
Chưa thấy giới chức Việt Nam có phản ứng gì về phóng sự nhìn nhận các cô dâu như hàng hóa này.

Xem thêm: Báo Trung Quốc viết về cô dâu Việt / Về chuyện 'mua cô dâu Việt' đưa về TQ / Giá trị phụ nữ trong mắt đàn ông VN?


‘Ế ẨM’

Phóng sự có độ dài 4’30" với tựa đề ‘Đàn ông Trung Quốc nhập khẩu cô dâu Việt Nam’ được phát vào thứ Sáu ngày 9/8 trong chương trình ‘Góc người tiêu dùng’ của kênh BON, tự nhận là kênh tiếng Anh tư nhân đầu tiên ở Trung Quốc.
Theo BON, hiện nay Trung Quốc có đến 11 triệu đàn ông chưa lấy vợ trong độ tuổi từ 30 đến 39.
Những người thuộc dạng này được xã hội Trung Quốc gọi là ‘độc thân ế ẩm’ (leftover singles).
Do sức ép từ gia đình phải lấy vợ, những người đàn ông 'ế ẩm' này phải ra nước ngoài để tìm cô dâu, đặc biệt là ở Việt Nam, Đài BON nhấn mạnh.
Lý do Việt Nam trở thành một quốc gia xuất khẩu cô dâu được đàn ông Trung Quốc ưa chuộng là vì ở đây ‘cứ 3 đàn ông thì có đến 5 phụ nữ’, theo phóng sự.
"Chỉ cần bỏ số tiền mua vài chiếc Iphone là có thể mua được cô dâu Việt. Các nhà môi giới này thậm chí còn cung cấp dịch vụ hậu mãi phòng khi cô dâu bỏ trốn. Quá hời."

Công dân mạng Trung QuốcTuy nhiên, lý do chính là ‘chênh lệnh giá quá lớn’ giữa cô dâu Việt Nam và cô dâu Trung Quốc.

Theo đó, chi phí để cưới vợ ở Trung Quốc có thể lên đến hơn 300.000 Mỹ kim, tức gần 6 tỷ đồng Việt Nam, trong khi để cưới một cô dâu Việt thông qua môi giới, đàn ông Trung Quốc chỉ cần bỏ ra chưa tới 5.000 Mỹ kim, tức khoảng 100 triệu đồng.

Một số cư dân mạng Trung Quốc mỉa mai về điều này, phóng sự của BON dẫn.

Một người khác bình luận: “Khi có con thì đứa trẻ này có thể nói được ngoại ngữ miễn phí. Thậm chí đi học ngoại ngữ còn đắt hơn (chi phí cưới cô dâu Việt).”

‘TỰ TIN HƠN’

Đàn ông Trung Quốc khó lấy vợ ở quê nhà do chi phí đắt đỏ

Phóng sự giới thiệu trường hợp một người thợ hồ ở Trùng Khánh, thành phố lớn nhất ở miền Tây Trung Quốc, vốn đang làm passport để sang Việt Nam tìm vợ.
Người đàn ông không rõ tên họ này cho biết anh ta không đủ tiền để cưới vợ ở các thành phố lớn của Trung Quốc vì anh ta đến từ nông thôn.
“Tôi nghĩ con gái Trung Quốc bây giờ quá say mê vật chất,” anh nói, “Tôi cảm thấy mặc cảm khi đi chơi với con gái thành thị.”
“Tôi muốn có một người vợ Việt Nam trẻ đẹp. Con gái Việt Nam sẽ giúp tôi cảm thấy tự tin hơn.”
Chi phí để cưới một cô dâu Việt – bao gồm tiền đám cưới, tiền trả cho nhà gái và lệ phí nộp cho nhà môi giới – tất cả cộng lại vẫn quá rẻ, BON cho biết.
Theo đó, trước đám cưới, chú rể Trung Quốc sẽ trả cho nhà gái khoảng vài trăm đô la.
Còn tiệc cưới ở Việt Nam chỉ tốn khoản 2.000 đô la. Đám cưới xong, chú rể được phép đưa cô dâu về Trung Quốc.
Một công dân mạng bình luận: “Tôi nghe nói nhiều gia đình ở Việt Nam chỉ đòi có 100 đô la. Mặc dù vậy, 100 đô đã là một số tiền lớn đối với họ.”

"Hôn nhân là phải có tình yêu. Hai vợ chồng sẽ phải ăn đời ở kiếp với nhau. Đằng này là sự kết hợp không có tình yêu giữa những người thậm chí còn không nói chuyện được với nhau."

Công dân mạng Trung Quốc“Đám cưới ở Việt Nam trên thực tế cũng giống như ở Trung Quốc. Khác biệt duy nhất là mức sống ở Việt Nam thấp hơn, còn ở Trung Quốc con gái chỉ đòi nhà đòi xe.”

BUÔN NGƯỜI?

Chỉ riêng tại thành phố Long Nham, tỉnh Phúc Kiến, trong những năm vừa qua đã tiếp nhận trên 2.000 cô dâu Việt, phóng sự cho biết.
Những cô dâu được các nhà môi giới chọn chỉ trong độ tuổi từ 18 đến 25. Các nhà môi giới dạng này nhan nhản ở trên mạng và ngoài thị trường.
Đa phần các cô dâu Việt này một chữ tiếng Hoa bẻ đôi cũng không biết.
Cũng theo BON, tỷ lệ cô dâu Việt bỏ trốn lên đến 25%. Những cô dâu nào vẫn gắn bó với chồng thì phải ở cùng chồng ở Trung Quốc ít nhất 5 năm thì mới được xem xét quyền cư trú lâu dài, còn không hàng năm phải đi xin lại thị thực.
Nhiều người dùng Internet thì nhận ra rằng các cuộc hôn nhân xuyên biên giới này thực chất là hành động ‘buôn người’.
Một người nhận định: “Hôn nhân là phải có tình yêu. Hai vợ chồng sẽ phải ăn đời ở kiếp với nhau. Đằng này là sự kết hợp không có tình yêu giữa những người thậm chí còn không nói chuyện được với nhau.”

Sunday, August 11, 2013

HAI BỨC ẢNH TỪ CHINA

HAI BỨC ẢNH TỪ CHINA
NTT: Một bức ảnh nói về SỐNG và một bức nói về CHẾT. Quan chức sống tranh sữa mẹ của những đứa trẻ, và những đứa trẻ (pháp luân công) chết dưới mũi súng của chính quyền để lấy nội tạng? Bạn có tin được không, dù đây chỉ là những bức ảnh?
Công an China chỉ bắn vào đầu để khỏi làm hư nát nội tạng của tín đồ Pháp Luân Công (http://laogai.org/system/files/u1/deathbig.jpg)



Ông Chu Phương, cựu biên tập viên có tiếng tăm của Tân Hoa Xã, vừa tiết lộ trên blog cá nhân những bữa tiệc sex do các doanh nhân giàu có tổ chức, trong đó có cả những trò như bú sữa trực tiếp từ các bà mẹ trẻ đang nuôi con. Nhiều quan chức cấp cao của Trung Quốc cũng góp vui trong những bữa tiệc như thế. (club.china.com)

http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/08/11/hai-buc-anh-tu-china/

Wednesday, August 7, 2013

Trung Quốc dựa vào cái gì để thống trị thế giới?

Trung Quốc dựa vào cái gì để thống trị thế giới?
Nhà quan sát về các vấn đề Trung Quốc người Mỹ David Shambaugh khẳng định trong cuốn “Trung Quốc bước ra thế giới”: “Nhiều người lo ngại về một "cuộc chinh phục" thế giới của Bắc Kinh, nhưng họ còn xa mới có thể đạt đến tầm thống trị thế giới”. Ông cũng cho biết thêm, hiện nay, chưa có biểu hiện gì cho thấy Trung Quốc muốn làm và có thể làm được điều này. Giả sử Bắc Kinh có ý đồ thống trị thế giới, thì họ cũng không biết cách nào để nắm được thế giới trong tay và cũng không ai để họ làm được điều đó, vì Trung Quốc vẫn chưa đủ thực lực để vượt qua Mỹ. Điều đó hoàn toàn không sai.
Hạm đội Trung Quốc không thể sống sót nếu ra xa bờ 500km

Tuy hiện nay Trung Quốc đang là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, có thể một ngày nào đó họ sẽ đứng ở vị trí số 1, nhưng xét về tổng dân số thì điều này cũng không có gì là đặc biệt. So sánh về GDP, Tổng thu nhập kinh tế quốc dân của Mỹ hiện chỉ hơn gấp đôi Trung Quốc, nhưng về thu nhập bình quân đầu người thì vượt rất xa, gấp 12 lần, còn Nhật Bản cũng hơn gấp bội so với Bắc Kinh.

Đúng là Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều tiền của để xây dựng quân đội, trở thành cường quốc quân sự số 1 châu Á và nằm trong top đầu của thế giới, nhưng họ không có đồng minh và căn cứ quân sự ở nước ngoài, tức là không có chỗ đứng chân. Hải quân Trung Quốc không có khả năng phát động chiến tranh cách bờ chỉ 300 dặm Anh (tương đương 482km), thậm chí còn không có khả năng bảo tồn sinh lực, nếu mon men ra xa bờ 500km

Hiện nay, các công ty Trung Quốc không ngừng vơ vét các tài nguyên thiên nhiên, để đáp ứng nhu cầu phát triển của một nền kinh tế phát triển quá nóng, nhưng hơn 90% kim loại và khoáng sản phải nhập khẩu từ nước ngoài, khả năng chủ động nguyên liệu cho nền kinh tế của Trung Quốc là rất khó khăn.

Điều này cho thấy sự thật hiển nhiên là nền kinh tế này có thể sập bất cứ lúc nào, nếu các thị trường cung ứng nguyên vật liệu bị đóng băng hoặc bị phong tỏa, hoặc tuyến đường vận chuyển trên biển Đông qua eo biển Malacca của họ bị bóp nghẹt. Bắc Kinh sẽ vùng vẫy như thế nào trong tình huống đó?

Nếu Trung Quốc không thể chủ động được về nền kinh tế, quân đội cũng không thể thắng trong một cuộc chiến tranh, thì họ làm thế nào để thống trị thế giới? Thông qua ngoại giao hay quyền lực mềm? Sử dụng những biện pháp này thì lại càng không thể. Thời gian qua, sự bế tắc trong đàm phán về biển Đông đã nói lên điều đó.

Về mặt ngoại giao, Trung Quốc luôn mang tư tưởng trịch thượng của một nước lớn, nhưng ngoài khả năng kêu gọi triệu tập Hội nghị 6 bên (ám chỉ vấn để Triều Tiên) và việc gây sức ép với các nước láng giềng trên biển Đông và Hoa Đông, Trung Quốc không hề có bất cứ hành động nào, tại bất cứ khu vực nào trên thế giới, gây được ảnh hưởng lớn đến các sự vụ quốc tế. Với chính sách ngoại giao phiêu lưu và nguy hiểm, Bắc Kinh không thể trở thành lãnh tụ trên trường quốc tế.

90% kim loại và khoáng sản Trung Quốc phải nhập khẩu từ nước ngoài

Tuy Trung Quốc cũng đầu tư khá nhiều tiền của, dùng mọi biện pháp để tuyên truyền hình ảnh ra thế giới, nhưng trong thời gian qua các cuộc khảo sát ở một số nước đã cho thấy, chỉ số “hình ảnh” của Trung Quốc là rất thấp, thể hiện một điều là hình tượng quốc gia của Trung Quốc trên toàn cầu là không “rực rỡ” như họ suy nghĩ. Một học giả Hồng Kông đã từng thừa nhận, “dấu chân” Trung Quốc xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng ấn tượng để lại quá nhạt nhòa.

Tất nhiên là những điều này có thể thay đổi, nhưng có rất nhiều lí do khiến Trung Quốc không thể xưng bá thiên hạ. Hiện tại bước chân của Trung Quốc trên vũ đài chính trị thế giới đang ngày một chậm dần, vì Trung Quốc không thể duy trì tốc độ phát triển quá nóng trong thời gian dài để làm sụp đổ nền kinh tế, điều đó đồng nghĩa với đầu tư nước ngoài sụt giảm, sẽ dẫn đến sự suy yếu về ảnh hưởng chính trị.

Đồng thời, Bắc Kinh cũng không thể duy trì mức độ đầu tư quá lớn cho quân đội, để bỏ mặc các vấn đề xã hội đang ngày càng nhức nhối, đặc biệt là tại các khu tự trị. Thời gian tới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ không thể ngủ yên, trong khi đó Mỹ và các đồng minh vẫn duy trì mức độ ổn định lâu dài. Dự báo trong tương lai, giấc mơ thống trị thế giới của người Trung Quốc còn lâu mới thực hiện được.
Theo Strategypage